Chị Thanh ung thư vú bên phải kèm u nhú cả hai bên ngực, được bác sĩ cắt tuyến vú kết hợp tái tạo tức thì hai bên ngực bằng phương pháp vạt TRAM.

Cách đây vài tháng, chị Thanh (42 tuổi, Cần Thơ) phát hiện vú phải chảy dịch vàng, sờ thấy có hạch di động và đau nhẹ. Kết quả sinh thiết lõi kim tại một cơ sở y tế tại địa phương chẩn đoán chị mắc ung thư vú giai đoạn sớm, mức độ ác tính thấp và có khả năng đáp ứng tốt với điều trị.
Chị Thanh đến khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ của Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM khám, bác sĩ một lần nữa khẳng định chị mắc ung thư vú phải, kèm nhiều u nhú hai bên. Phải cắt bỏ cả hai bên vú, chị Thanh bày tỏ nguyện vọng được tái tạo ngực hai bên bằng chính mô của cơ thể mình để có bộ ngực tự nhiên, mềm mại bình thường.
Thách thức đặt ra cho bác sĩ là thể tích vú của bệnh nhân lớn, nếu dùng vạt lưng để tái tạo thì chưa đủ, trong khi đó lớp mỡ bụng của bệnh nhân dày, đủ để tái tạo vừa hai bên ngực. Do đó, ThS.BS.CKI Huỳnh Bá Tấn, bác sĩ khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, phẫu thuật viên chính trong kíp mổ đã sử dụng phương pháp vạt TRAM có cuống.
Phẫu thuật vạt TRAM (Transverse Rectus Abdominis Myocutaneous) được mô tả lần đầu vào năm 1982. Kỹ thuật này cho phép bác sĩ sử dụng phần da, mỡ và cơ thẳng bụng của bệnh nhân để tạo hình lại bầu ngực. Khối mô này được giữ mạch máu nuôi rồi chuyển lên vùng ngực qua đường hầm dưới da. Vạt TRAM có ưu điểm lớn như bầu ngực tái tạo mềm mại, tự nhiên, không cần vật liệu nhân tạo, có thể thực hiện cả hai bên trong một lần mổ, đồng thời vùng bụng bệnh nhân được tạo hình lại như sau một ca thẩm mỹ.
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã khẳng định tính an toàn và hiệu quả của kỹ thuật TRAM. Tại Đại học Michigan (Mỹ), trong 15 ca mổ tái tạo hai bên bằng TRAM cuống, chỉ một ca bị thoát vị thành bụng. Nghiên cứu trên 257 bệnh nhân tại Emory Clinic (Mỹ) cho thấy biến chứng giữa nhóm mổ một bên và hai bên không khác biệt đáng kể. Khảo sát khác ghi nhận 96% bệnh nhân hài lòng và sẵn sàng giới thiệu cho người khác.
Điểm hạn chế của kỹ thuật này là rủi ro bị thoát vị thành bụng cao do phải lấy mỡ bụng và phần cơ thành bụng, đòi hỏi phẫu thuật viên phải thành thạo về kỹ thuật phục hồi thành bụng bằng lưới mới hạn chế được biến chứng. Ngoài ra thời gian phẫu thuật kéo dài, người bệnh có nguy cơ yếu thành bụng, song biến chứng này ngày nay đã giảm nhiều nhờ sự hỗ trợ của lưới nhân tạo.
Ca phẫu thuật kéo dài hơn 8 tiếng, bác sĩ Tấn thực hiện tuần tự các bước gồm sinh thiết hạch gác cửa, đoạn nhũ tiết kiệm da hai bên qua đường rạch dưới vú, lấy vạt TRAM và chuyển qua đường hầm để tái tạo ngực, sau đó phục hồi thành bụng và khâu đóng vết mổ. Sau mổ, bệnh nhân ít đau, xuất viện vào ngày thứ 4, rút dẫn lưu vào ngày thứ 11 và theo dõi sau đó khoảng 4 tháng không có biến chứng. Hài lòng sau ca đại phẫu, chị Thanh chia sẻ bước vào cuộc mổ với cảm giác rất an tâm, tự tin hơn với bộ ngực đầy đặn, cân xứng như chưa từng trải qua phẫu thuật.

Ung thư vú đang là một trong những căn bệnh ám ảnh đối với phụ nữ, ảnh hưởng sức khỏe, tâm lý và ngoại hình người bệnh, đặc biệt sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú. Kỹ thuật tái tạo vú tức thì bằng vạt cơ – mỡ – da từ thành bụng (vạt TRAM có cuống) được ứng dụng rộng rãi tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, mở ra thêm cơ hội để bệnh nhân vừa điều trị ung thư, vừa giữ được sự toàn vẹn hình thể.
“Bệnh nhân ung thư vú được áp dụng phương pháp tái tạo vú tức thì bằng vạt TRAM, kết quả cho thấy tính thẩm mỹ cao, hình dáng bầu ngực hài hòa, gần như tự nhiên. Không chỉ khôi phục vóc dáng, kỹ thuật này còn giúp người bệnh giảm gánh nặng tâm lý, lấy lại sự tự tin và chất lượng cuộc sống sau điều trị ung thư. Đặc biệt, tỷ lệ biến chứng thấp, khả năng phục hồi nhanh và hiệu quả lâu dài đã khẳng định đây là một trong những giải pháp tối ưu trong phẫu thuật điều trị và tái tạo vú hiện đại”, ThS.BS.CKI Huỳnh Bá Tấn nhấn mạnh.
Các bác sĩ khuyến cáo, sau phẫu thuật ung thư vú bằng vạt TRAM, người bệnh nên giữ vết mổ sạch khô, chăm sóc ống dẫn lưu, tái khám định kỳ và tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ. Trong 6-8 tuần đầu, nên hạn chế mang vác nặng, tránh vận động căng cơ bụng, đồng thời sử dụng đai nịt bụng để giảm nguy cơ thoát vị. Bệnh nhân cần ăn uống đủ chất, theo dõi sát sao các dấu hiệu bất thường như sưng, đau, chảy mủ hoặc sốt để được xử trí kịp thời.

Theo GLOBOCAN 2022, thế giới ghi nhận gần 2,3 triệu ca mắc mới và 666.000 ca tử vong do ung thư vú mỗi năm. Tại Việt Nam, con số lần lượt là 24.600 và hơn 10.000 ca. Ung thư vú hiện là bệnh ung thư phổ biến nhất ở nữ giới, nhưng một khảo sát tại TP HCM cho thấy 40% phụ nữ lo ngại biến dạng cơ thể sau mổ nhiều hơn cả nguy cơ tử vong. Đây là rào cản tâm lý khiến tỷ lệ phát hiện sớm còn thấp. Trong bối cảnh đó, việc áp dụng kỹ thuật tái tạo vú bằng vạt TRAM rất cần thiết và hữu ích cho bệnh nhân ung thư vú.
Tại Mỹ, quyền được tái tạo vú sau điều trị ung thư đã được luật hóa từ năm 1998 trong Women’s Health and Cancer Rights Act, yêu cầu bảo hiểm chi trả chi phí tái tạo. Tại Pháp, bệnh nhân được hỗ trợ chi phí thay túi ngực và hình xăm y khoa sau phẫu thuật. Còn ở Việt Nam, tái tạo vú vẫn còn hạn chế do thiếu phẫu thuật viên tạo hình, chi phí cao và quan niệm xã hội còn xem đây là “làm đẹp xa xỉ”.
“Tái tạo vú không đơn thuần là thẩm mỹ mà là giải pháp y khoa nhân văn, giúp phụ nữ sau điều trị ung thư giữ lại hình thể và sự tự tin. Việt Nam cần nhìn nhận đúng đắn hơn để hàng nghìn phụ nữ mỗi năm không phải sống trong mặc cảm sau khi chiến đấu với bệnh tật”, bác sĩ Tấn nói.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH