Mục đích điều trị đối với bệnh ung thư vú giai đoạn IV không phải chữa hết hẳn bệnh, nhưng có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng và kéo dài thêm thời gian sống cho bệnh nhân.
Ung thư vú giai đoạn IV còn được gọi là ung thư vú di căn, nghĩa là bệnh ung thư vú đã di căn sang các bộ phận khác trong cơ thể.
Khi các tế bào ung thư di chuyển theo đường máu và/hoặc hạch đến các bộ phận khác trong cơ thể thì gọi là di căn.
Ung thư vú có thể di căn đến bộ phận khác trong cơ thể trong thời gian vài tháng hoặc vài năm sau khi được chẩn đoán và điều trị. Cũng có khi, bệnh ung thư vú được phát hiện và chẩn đoán trong tình trạng đã có di căn đến các bộ phận khác trong cơ thể.
Hệ thống phân giai đoạn TNM là viết tắt của Khối u (Tumor), Hạch (Node), Di căn (Metastasis). (1)
Giai đoạn TNM của Ung thư vú:
Giai đoạn TNM (AJCC 8) | |
T (Tumor): U nguyên phát | |
Tx | Không đánh giá được khối u nguyên phát. |
T0 | Không có bằng chứng về khối u nguyên phát. |
T1 | U có đường kính lớn nhất 2cm. |
T2 | Khối u có đường kính ≤5cm và lớn nhất >2cm |
T3 | Đường kính của khối u lớn nhất >5cm. |
T4 | Bất kể kích thước của khối u là bao nhiêu, nhưng khối u xâm lấn trực tiếp tới thành ngực và/hoặc da. Các triệu chứng trên da có thể gồm loét, da sần sùi như vỏ quả cam hoặc có nốt trên da. |
N (Node): Hạch vùng | |
Nx | Không đánh giá được hạch vùng (có thể do hạch đã được phẫu thuật trước đó). |
N0 | Không sờ thấy hoặc chẩn đoán hình ảnh không phát hiện có di căn hạch vùng. |
N1 | Di căn hạch nách cùng bên, hạch còn di động. |
N2 | Di căn hạch nách cùng bên, hạch bị dính nhau hoặc dính tổ chức khác có thể phát hiện trên lâm sàng. Hoặc có di căn hạch vú trong cùng bên nhưng không tìm thấy bằng chứng di căn hạch nách trên lâm sàng. |
N3 | Di căn hạch vùng dưới xương đòn cùng bên nhưng có hoặc không kèm theo di căn hạch nách. Hoặc di căn hạch vú trong cùng bên và có kèm theo di căn hạch nách. Hoặc di căn hạch vùng trên xương đòn cùng bên nhưng có hoặc không kèm theo di căn hạch vú trong hoặc hạch nách. |
M (Metastasis): Di căn xa | |
M0 | Không tìm thấy bằng chứng lâm sàng hoặc hình ảnh của bệnh đã di căn xa. |
M1 | Phát hiện được di căn xa bằng thăm khám lâm sàng và bằng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. |
Giai đoạn của bệnh ung thư cho biết mức độ lớn của khối u và mức độ di căn của khối u. Việc tìm ra giai đoạn ung thư vú sẽ giúp bác sĩ đưa ra quyết định điều trị bằng phương pháp nào là phù hợp và hiệu quả nhất.
Giai đoạn IV ung thư vú có các đặc điểm sau:
Ung thư vú giai đoạn IV bao gồm các nhóm bệnh nhân được đánh giá theo TNM là T bất kỳ, N bất kỳ, M1.
Xem thêm:
Ung thư vú có thể di căn đến tất cả các bộ phận trong cơ thể. Tuy nhiên, các bộ phận thường bị di căn nhất của ung thư vú là xương, phổi, gan, não và hạch.
Theo bác sĩ Trần Thị Thiên Hương, các triệu chứng ung thư vú giai đoạn IV có thể rất khác nhau tùy thuộc vào vị trí di căn, nhưng có thể chia thành các nhóm như sau: (2)
Ung thư vú giai đoạn IV có chữa được không? Ung thư vú giai đoạn IV không thể chữa khỏi. Tiên lượng sẽ xấu đi đáng kể khi khối u đã di căn toàn thân. Thông thường, chỉ có khoảng 22% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn IV sống sót sau 5 năm tiếp theo.
Nếu có tiền sử ung thư vú hoặc mới chẩn đoán bệnh ung thư vú và có bất kỳ triệu chứng nào nghi ngờ tình trạng di căn, bác sĩ có thể đề nghị một hoặc nhiều xét nghiệm sau:
Liệu pháp điều trị toàn thân bằng thuốc (hóa trị và các loại thuốc khác) là phương pháp điều trị chính. Các loại thuốc có thể được dùng bao gồm hóa trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp nhắm trúng đích và liệu pháp miễn dịch. Các loại thuốc này có thể được dùng riêng lẻ hoặc phối hợp với nhau. Phẫu thuật và/hoặc xạ trị có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định. (3)
Theo bác sĩ Thảo Nghi, mục đích điều trị ung thư vú giai đoạn IV không phải chữa hết hẳn bệnh, mà nhằm giảm nhẹ các triệu chứng và kéo dài thêm thời gian sống cho bệnh nhân. Nếu đáp ứng tốt với điều trị, có thể giảm kích thước hoặc biến mất tạm thời các tổn thương, hoặc làm chậm sự phát triển của chúng.
Tuy nhiên, các tổn thương này không bị triệt tiêu hoàn toàn, mà vẫn có thể tiến triển trở lại. Vì vậy, không có tổng thời gian điều trị cụ thể cho giai đoạn này. Việc điều trị thường kéo dài cho đến khi bệnh ung thư bắt đầu tiến triển trở lại; hoặc cho đến khi xảy ra các tác dụng phụ có thể gây bất lợi cho bệnh nhân. Khi đó, bệnh nhân có thể được chuyển qua loại thuốc khác.
Việc lựa chọn thuốc điều trị tùy thuộc vào tính chất sinh học của khối u (thụ thể nội tiết ER PR, thụ thể HER2, đột biến gen) cũng như tình trạng di căn của bệnh và thể trạng của bệnh nhân. Hoàn toàn không có bất kỳ công thức mẫu cố định nào, mà có rất nhiều tình huống để cân nhắc chọn lựa. Có thể tham khảo một vài ví dụ sau:
Tùy theo tình trạng mãn kinh, bác sĩ sẽ lựa chọn các phương pháp như: (4)
Xạ trị và/hoặc phẫu thuật có thể được dùng trong một số trường hợp nhằm giảm nhẹ triệu chứng tại chỗ/tại vùng, chẳng hạn như:
Thuốc giảm đau, thuốc giảm stress, thuốc làm chậm hủy xương do di căn xương như Biphosphonat, Pamidronate…
Bác sĩ Thảo Nghi cho biết, với ung thư vú giai đoạn IV, quyết định có tiếp tục điều trị đặc hiệu với thuốc, hay chỉ điều trị giảm nhẹ sẽ tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình trạng sức khỏe thể chất-tinh thần-tâm lý-gia đình-xã hội cũng như nguyện vọng của bệnh nhân và thân nhân, tính chất sinh học của khối u, các thuốc điều trị đã dùng trước đó, bộ phận bị tiến triển…
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Bệnh nhân và thân nhân, trong bất kỳ tình huống nào cũng không nên bi quan buông xuôi tất cả. “Mặc dù không chữa khỏi hẳn bệnh ung thư vú giai đoạn IV, nhưng với sự tiến bộ không ngừng của y khoa, có nhiều loại thuốc và phương pháp điều trị hỗ trợ nhằm giúp mang lại chất lượng cuộc sống tốt nhất có thể cho bệnh nhân. Đặc biệt, nên chú trọng việc khám tầm soát để phát hiện bệnh ung thư ở giai đoạn càng sớm càng tốt, để việc điều trị đạt hiệu quả cao và tiên lượng khả quan hơn”, bác sĩ Thảo Nghi khuyên.