Ung thư cổ tử cung giai đoạn III là giai đoạn ung thư khi khối u đã xâm lấn đến 1/3 dưới của âm đạo, lan đến thành chậu hay bệnh đã di căn tới các hạch bạch huyết lân cận, nhưng chưa di căn xa.
Giai đoạn III còn được coi là giai đoạn bệnh tiến xa tại chỗ và sẽ rất nhanh phát triển thành giai đoạn IV (giai đoạn cuối) nếu không được điều trị kịp thời. Các phương pháp điều trị với hóa trị, xạ trị có thể giúp cải thiện tiên lượng sống sau 5 năm cho người bệnh.
Hệ thống phân loại của Liên đoàn Sản Phụ khoa Quốc tế (FIGO) chia ung thư cổ tử cung thành 4 giai đoạn (từ giai đoạn I tới IV). Mỗi giai đoạn sẽ cho biết mức độ lớn của khối u và tình trạng di căn. Phân giai đoạn bệnh sẽ giúp các bác sĩ quyết định phương pháp điều trị tối ưu nhất cho người bệnh.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn III là ung thư đã lan ra khỏi cổ tử cung, xâm lấn tới 1/3 dưới của âm đạo, xâm lấn tới các cấu trúc trong khung chậu, gây ứ nước thận, và di căn hạch (vùng chậu, hạch quanh động mạch chủ).
Theo FIGO, ung thư cổ tử cung giai đoạn III có thể được chia thành:
Xem thêm:
Các triệu chứng của ung thư cổ tử cung giai đoạn III gồm:
Ngoài ra, người bệnh có thể gặp các triệu chứng khác tùy thuộc vào cơ quan bị ảnh hưởng như ứ nước thận, chèn ép bàng quang-trực tràng gây tiểu khó, táo bón…
Tỷ lệ sống còn 5 năm của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn III là trên 40%. Mặc dù vậy, đây không phải là con số tuyệt đối cho tất cả các trường hợp bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn III.
Tiên lượng sống còn của bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như:
Bác sĩ sẽ cân nhắc dựa trên các yếu tố như tuổi, tình trạng sức khỏe chung của người bệnh, đặc điểm khối u… để lựa chọn phác đồ điều trị phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu nhất. Không có một phác đồ nào là phù hợp với tất cả người bệnh, cũng như không phải người bệnh nào cũng đều đáp ứng với phác đồ được lựa chọn. Tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, cá thể hoá điều trị, kết hợp đa chuyên khoa, đa mô thức giúp tăng hiệu quả điều trị và tăng tỷ lệ điều trị thành công.
Việc chẩn đoán ung thư cổ tử cung sẽ dựa trên thăm khám và các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán xác định giai đoạn và đưa ra phương án điều trị tốt nhất cho người bệnh.
Các phương pháp chẩn đoán ung thư cổ tử cung giai đoạn III bao gồm:
Phương pháp này nhằm quan sát tổn thương cổ tử cung và bấm sinh thiết lấy mẫu để giải phẫu bệnh.
Bác sĩ chỉ định nội soi bàng quang, trực tràng để đánh giá xem u có xâm lấn các bộ phận này hay không.
Tổng phân tích tế bào máu, đánh giá chức năng gan-thận…
Với bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn III, điều trị bằng hóa – xạ trị đồng thời là phương pháp điều trị tối ưu nhất. Phác đồ điều trị kết hợp đồng thời hóa trị với xạ trị được đánh giá cao vì hóa trị và xạ trị có thể hoạt động hiệp lực làm tăng hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư. Các nghiên cứu lâm sàng được thực hiện ở bệnh nhân ung thư cổ tử cung tiến xa tại chỗ sử dụng đồng thời hóa trị và xạ trị đã chứng minh hiệu quả điều trị và kéo dài thời gian sống thêm cho người bệnh hơn so với chỉ điều trị xạ trị đơn thuần.
Xạ trị chiếu ngoài (EBRT) kết hợp với xạ trị áp sát (Brachytherapy) được lựa chọn trong điều trị bệnh.
Hóa chất sẽ được cho đồng thời với xạ trị. Việc bổ sung thuốc hóa chất đã cải thiện kết quả điều trị ở bệnh nhân ung thư cổ tử cung. Hóa chất có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư và giúp tăng hiệu quả của xạ trị. Hóa chất thường được sử dụng trong phác đồ hóa xạ đồng thời điều trị ung thư cổ tử cung là cisplatin (có thể thay thế bằng carboplatin cho những bệnh nhân không dung nạp được với cisplatin).
Mặc dù điều trị kết hợp hóa – xạ trị cho ung thư cổ tử cung giai đoạn III, tỷ lệ tái phát bệnh vẫn còn cao (ước tính khoảng 20-40%). Do đó, nhiều chiến lược điều trị đang được nghiên cứu nhằm cải thiện hiệu quả điều trị và kéo dài thời gian sống còn cho người bệnh, đặc biệt là ung thư cổ tử cung giai đoạn III.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Ung thư cổ tử cung giai đoạn III có thể nhận biết với triệu chứng như ra máu âm đạo bất thường, đau tức vùng tiểu khung…, tuy nhiên các triệu chứng có thể do nhiều bệnh lý khác. Việc thăm khám bác sĩ chuyên khoa là cần thiết để giúp chẩn đoán chính xác bệnh và giai đoạn. Từ đó, bác sĩ có thể tư vấn và điều trị ngay, không nên chữa trị tại nhà bằng các phương pháp chưa qua kiểm chứng. Điều này sẽ làm mất đi cơ hội điều trị, đồng thời có thể khiến bệnh diễn tiến nặng hơn.