Mục tiêu quan trọng nhất của sơ cứu đột quỵ là giảm tử vong và di chứng để lại cho người bệnh. Do đó, đảm bảo thực hiện sơ cứu người bị đột quỵ đúng cách trong khi chờ được tiếp cận dịch vụ y tế khẩn cấp.
Đột quỵ xảy ra khi máu vận chuyển lên não bị gián đoạn hoặc khi não chảy máu. Đột quỵ được chia thành các nhóm như đột quỵ do thiếu máu cục bộ (xảy ra khi các động mạch đến não bị tắc nghẽn bởi cục máu đông) và đột quỵ do xuất huyết não (xảy ra khi một mạch máu trong não bị vỡ và chảy máu).
Nhiều cơn đột quỵ do thiếu máu cục bộ xuất phát từ sự tích tụ của mảng bám trong động mạch. Nếu cục máu đông hình thành trong động mạch não, nó được gọi là đột quỵ huyết khối, còn khi hình thành ở một nơi khác trong cơ thể (hình thành từ tim hay do mảng xơ vữa bong tróc) và di chuyển đến não có thể gây ra đột quỵ do thuyên tắc.
Một cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA), hoặc chứng đột quỵ, có thể khó nhận biết thông qua các triệu chứng bởi đây là một sự kiện diễn ra nhanh chóng. Các triệu chứng biến mất hoàn toàn trong vòng 24 giờ và thường kéo dài ít hơn năm phút. TIA xảy ra do dòng máu lên não bị tắc nghẽn tạm thời, cũng được xem là dấu hiệu cho thấy một cơn đột quỵ nặng hơn có thể sắp xảy ra.
Mức độ ảnh hưởng cao nhất của đột quỵ là gây tử vong. Trường hợp, may mắn sống sót có thể đối diện với những di chứng nặng nề. Tùy vào khoảng thời gian phát hiện đột quỵ, cấp cứu và điều trị mà mức độ tổn thương đến hệ thần kinh sẽ khác nhau. Thời gian cấp cứu càng lâu, hệ thần kinh càng bị tổn hại càng nhiều, gây hậu quả nghiêm trọng, lâu phục hồi, thậm chí không thể phục hồi. Thông thường, phải mất ít nhất 30 ngày để người bị tai biến mạch máu não có thể phục hồi. Trong một số trường hợp, biến chứng có thể gây thương tổn vĩnh viễn.
Thống kê cho thấy, 90% bệnh nhân phải gánh chịu các di chứng sau đột quỵ như sa sút trí tuệ, liệt nửa người, miệng méo, sống thực vật, gặp vấn đề về thị giác, tâm lý (trầm cảm, rối loạn cảm xúc), vận động yếu và khó cử động tay chân, nói ngọng, nói không tròn vành rõ chữ, giao tiếp khó khăn… Hệ quả, người bệnh suy giảm hoặc mất hẳn khả năng lao động và làm việc, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Đột quỵ xảy ra đột ngột khi ai đó đang làm việc, sinh hoạt bình thường. Khi ấy, các triệu chứng thần kinh khu trú đột nhiên xuất hiện. Các triệu chứng có thể khởi phát và đạt mức độ nặng tối đa ngay từ đầu (thường gặp ở xuất huyết não) hoặc khởi phát đột ngột và tiến triển nặng dần lên thành từng nấc (trong nhồi máu não).
Các triệu chứng thần kinh khu trú (các triệu chứng vận động):
Đột quỵ có thể ảnh hưởng mỗi người mỗi khác nhưng không phải ai cũng cùng lúc gặp tất cả các triệu chứng. Tuy nhiên, dưới đây là một số trong những dấu hiệu đột quỵ phổ biến nhất, thường áp dụng theo quy tắc FAST (Face – Arm – Speech – Time) để nhận biết các triệu chứng đột quỵ: (1)
Trường hợp các triệu chứng chỉ kéo dài vài phút hoặc vài giờ, người bệnh cũng cần được chăm sóc y tế khẩn cấp bởi đó có thể là dấu hiệu của một cơn đột quỵ nhỏ/ cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua; cũng có thể là một cảnh báo về một cơn đột quỵ nghiêm trọng sắp xảy ra.
Đột quỵ có thể khiến người bệnh mất thăng bằng hoặc bất tỉnh, có thể té ngã. Nếu cho rằng bản thân hoặc ai khác xung quanh bị đột quỵ, hãy làm theo các bước sau:
Bước 1: Gọi dịch vụ cấp cứu khẩn cấp
Bước 2: Sơ cứu đột quỵ trong lúc chờ cấp cứu
Bước 3: Cung cấp thông tin về tình trạng của người bệnh
Xem thêm: Cấp cứu đột quỵ: Sơ cứu, chuyển viện và can thiệp thế nào hiệu quả?
Có. Sơ cứu càng sớm, khả năng người bệnh đối diện với nguy cơ tử vong càng giảm. Tuy nhiên, kỹ thuật sơ cứu đột quỵ cần thực hiện chính xác, nhanh chóng theo những lưu ý sơ cứu đột quỵ tại nhà trên. Đặc biệt, không nên thực hiện cạo gió, trích máu hay cho người bệnh uống thuốc. Những việc này làm này góp phần kéo dài thời gian người bệnh không được tiếp cận dịch vụ y tế khẩn cấp.
Đột quỵ được chia thành 2 thể là nhồi máu do tắc động mạch (chiếm 80%) và đột quỵ xuất huyết não do vỡ mạch máu não. Theo đó, việc xử trí huyết áp trong 2 trường hợp đột quỵ sẽ khác nhau.
Tuy nhiên, việc hạ áp cho bệnh nhân cần có sự giám sát về y tế, người sơ cứu không nên tự ý sử dụng thuốc hạ áp ngậm dưới lưỡi, bởi vì khi sử dụng chúng ta sẽ không biết huyết áp sẽ hạ tới mức bao nhiêu và khi hạ huyết áp quá thấp thì không thể đảo ngược tình huống. Do đó, việc tối cần thiết là nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất.
Thời gian “vàng” để cấp cứu bệnh nhân đột quỵ là 3 – 4,5 giờ đầu sau khi phát hiện các dấu hiệu đầu tiên và được cấp cứu bằng các thuốc tiêu huyết khối đường tĩnh mạch; hoặc trong 24 giờ đầu bằng phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học (tùy thuộc vùng não tổn thương) đối với các bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não thì khả năng người bệnh được cứu sống hay hạn chế di chứng rất cao.
Trong khoảng thời gian này, mỗi phút trôi đi sẽ có 2 triệu tế bào thần kinh chết dần. Sau 3 giờ, khu vực vùng não xảy ra tai biến và mô não cận kề sẽ bị hư hại khó phục hồi.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Tóm lại, trong một cơn đột quỵ, thời gian là yếu tố quan trọng quyết định khả năng hồi phục của người bệnh. Do đó, song song với sơ cứu đột quỵ, hãy nhanh chóng gọi dịch vụ cấp cứu và đưa người bệnh đến bệnh viện càng nhanh càng tốt.