Ông Mỹ, 55 tuổi, đi khám vì mệt khi gắng sức, được chẩn đoán hẹp khít van động mạch chủ do biến chứng bệnh thấp tim.

Trước đó một tháng, ông Mỹ mệt, hụt hơi khi làm việc nặng. Tưởng công việc quá sức, ông giảm cường độ nhưng triệu chứng không thuyên giảm. Ông đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM khám.
ThS.BS.CKII Huỳnh Hoàng Khang, Trưởng khoa Ngoại tim mạch, Trung tâm Tim mạch Can thiệp, cho biết kết quả siêu âm tim ghi nhận van động mạch chủ hẹp khít, diện tích mở van chỉ còn 0,6 cm² (bình thường 3–4 cm²), các lá van vôi hóa nặng và dày dính, khiến máu khó được tống ra khỏi tim.
Hẹp van động mạch chủ là tình trạng van mở không hết, cản trở dòng máu từ thất trái đi ra đại tuần hoàn. Tim phải tăng co bóp để bù trừ, dần dẫn đến phì đại cơ tim, giảm cung lượng tim và suy tim. Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân có thể gặp đau ngực, ngất, khó thở, rối loạn nhịp tim hoặc đột tử…
Một số nguyên nhân thường gặp dẫn đến hẹp van động mạch chủ là thoái hóa vôi người lớn tuổi (phổ biến ở độ tuổi 70-80), dị tật tim bẩm sinh và thấp tim. Bác sĩ Khang nhận định bệnh nhân còn trẻ, không bị dị tật bẩm sinh. Như vậy, nguyên nhân khiến ông bị hẹp van động mạch chủ là do biến chứng của bệnh thấp tim, còn gọi là tình trạng van tim hậu thấp.
Thấp tim hay bệnh tim do thấp là bệnh viêm cấp tính có tính chất toàn thân (có liên quan đến miễn dịch), xảy ra sau một hay nhiều đợt viêm họng do liên cầu bêta tan huyết nhóm A. Khi cơ thể nhiễm liên cầu khuẩn, hệ miễn dịch tạo ra kháng thể để tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, một số protein của vi khuẩn có cấu trúc tương tự mô tim (hiện tượng molecular mimicry), khiến kháng thể tấn công nhầm mô van và cơ tim. Về lâu dài, quá trình viêm mạn tính và xơ hóa dẫn đến vôi hóa thứ phát, khiến các lá van dày, cứng và dính, gây hẹp hoặc hở van.

Theo bác sĩ Khang, trái tim bệnh nhân đã có dấu hiệu suy yếu, chẩn đoán suy tim nhẹ, cần phẫu thuật thay van động mạch chủ để ngăn biến chứng. Ê kíp gây mê nội khí quản kết hợp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho người bệnh để giúp giảm đau, hạn chế dùng morphin sau mổ. Van cũ được cắt bỏ hoàn toàn, thay bằng lá van sinh học. Sau 5 giờ ca mổ kết thúc.
Sức khỏe ông Mỹ ổn định, vết mổ khô nhanh, không nhiễm trùng. Ông xuất viện sau 5 ngày. Với van sinh học, bệnh nhân thường dùng thuốc kháng đông (warfarin) trong 3 tháng đầu, sau đó có thể ngưng nếu không có chỉ định khác như rung nhĩ. Ngược lại, nếu thay van cơ học, phải dùng kháng đông suốt đời để duy trì INR mục tiêu theo khuyến cáo.
Thấp tim là nguyên nhân chính gây ra bệnh tim mạch ở các nước đang phát triển. Thấp tim thường khởi phát 2–4 tuần sau khi bị viêm họng do liên cầu khuẩn. Nếu không được điều trị đúng, phản ứng miễn dịch có thể gây viêm tim, viêm khớp, tổn thương thần kinh và để lại di chứng van tim hậu thấp.
Để giảm nguy cơ mắc bệnh thấp tim, mỗi người cần chú ý giữ ấm, giữ vệ sinh răng miệng và vùng mũi họng để tránh các bệnh về răng, viêm họng. Lau chùi sạch sẽ khu vực nhà ở và môi trường sống xung quanh; giữ ấm vùng cổ, ngực, mũi họng trong mùa đông. Có chế độ dinh dưỡng đủ chất để nâng cao sức đề kháng. Nếu bạn bị viêm họng, viêm amidan hoặc viêm xoang, cần điều trị triệt để. Trẻ em từ 5-15 tuổi có viêm họng kèm đau mỏi, sưng các khớp, tức ngực, hồi hộp và khó thở, đau vùng tim kèm theo bất thường về thần kinh vận động, cần đưa trẻ đến bệnh viện để được khám và điều trị kịp thời.
Hiện chưa có vắc xin phòng ngừa liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A. Do đó, việc phát hiện sớm và điều trị triệt để các nhiễm trùng hầu họng do liên cầu vẫn là biện pháp hiệu quả nhất để phòng ngừa thấp tim. Với những người từng mắc thấp tim, cần tiêm phòng ngừa tái phát bằng penicillin chậm (benzathine penicillin G) theo hướng dẫn của bác sĩ, thường mỗi 3–4 tuần/lần, kéo dài nhiều năm nhằm ngăn ngừa tái phát và bảo vệ van tim.
*Tên bệnh nhân đã được thay đổi
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH