Người mắc ung thư có nhiều bệnh nền như tim mạch, tiểu đường, suy thận… thường ngại phẫu thuật vì sợ nguy hiểm, khiến tình trạng nặng thêm.

Phẫu thuật là một trong những phương pháp chính trong điều trị ung thư, giúp loại bỏ khối u hay tổ chức ung thư khỏi cơ thể nhanh chóng. Nếu người bệnh ung thư được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, phẫu thuật có thể điều trị triệt để, cơ hội khỏi bệnh đến 99% mà không cần hóa trị, xạ trị sau đó, chẳng hạn ung thư vú, tuyến giáp, đại tràng.
Tuy nhiên, nhiều người bệnh ung thư, đặc biệt người lớn tuổi mắc kèm bệnh nền: tăng huyết áp, tiểu đường, suy thận, tim mạch… thường từ chối điều trị vì sợ nguy hiểm, khiến bệnh nặng hơn. Tại BVĐK Tâm Anh TP.HCM đã ghi nhận hơn 100 ca người bệnh ung thư có nhiều bệnh nền từ chối phẫu thuật trước đó vì sợ đụng “dao kéo” lo tế bào ung thư di căn, hay bệnh nền nặng thêm.

Như trường hợp bà T.V.N.T. (67 tuổi, Đồng Nai), năm 2023, sờ thấy u cỡ hạt đậu phộng ở ngực trái, được gia đình đưa đi khám, phát hiện ung thư vú giai đoạn 0. Nghĩ mình cao tuổi, đang suy thận mạn giai đoạn 4, cao huyết áp, lại sợ phẫu thuật gặp nguy hiểm, bà T. quyết định không điều trị, “sống ngày nào hay ngày đó”, mặc cho con cái khuyên nhủ.
Đầu tháng 11/2024, khối u của bà lớn cỡ trái tắc, cơ thể xanh xao, gia đình nhất quyết đưa bà khám ở đơn vị Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ, Phòng khám Đa khoa Tâm Anh quận 7, tìm cách điều trị. Kết quả siêu âm, chụp nhũ ảnh, sinh thiết cho bà T. xác định ung thư vú trái đã ở giai đoạn 2, xâm nhiễm mô vú xung quanh, cần phẫu thuật cắt tuyến vú, sinh thiết hạch gác cửa và nạo hạch nách nếu hạch bị di căn. Bà T. vẫn mang nỗi sợ phẫu thuật vì mang nhiều bệnh nền.

Để bà T. hợp tác điều trị, bác sĩ khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ, hội chẩn với bác sĩ khoa Nội thận và Gây mê Hồi sức để kiểm soát chỉ số thận, đảm bảo phẫu thuật an toàn.
Bác sĩ CKII Lưu Kính Khương, Trưởng khoa Gây mê Hồi sức, BVĐK Tâm Anh TP.HCM, lên kế hoạch gây mê cho bà T. Trong cuộc phẫu thuật, nếu không kiểm soát tốt kali và dịch đưa vào cơ thể, bà có nguy cơ phù phổi cấp, ngưng tim bất cứ lúc nào. Do đó, ê kíp cần hạn chế dịch truyền, kiểm tra kỹ kali máu trước khi gây mê.
Bác sĩ chọn loại thuốc ít đào thải qua thận, ít ảnh hưởng lên tim, mà tự phân giải trong huyết tương, đảm bảo không tồn dư thuốc sau gây mê. Bởi thận bà T. bị suy, không thể chuyển hóa được các chất chuyển hoá của thuốc. Liều lượng thuốc được cân nhắc chính xác và qua hệ thống máy monitor 10 thông số theo dõi sát diễn biến của người bệnh trong quá trình phẫu thuật như huyết áp, độ sâu gây mê, độ đau, mức độ dãn cơ, nhịp tim… để bác sĩ gây mê có thể xử trí nhanh chóng, kịp thời những thay đổi bất thường của người bệnh để đảm bao cuộc mổ diễn ra theo đúng kế hoạch và an toàn nhất cho người bệnh.
Ê kíp đặt huyết áp động mạch xâm lấn, đo huyết áp bà T. chính xác đến từng mmHg và diễn biến theo thời gian thực, giúp phát hiện bất thường ngay từng giây để điều chỉnh thuốc kịp thời. Trong khi đó, nếu đo huyết áp bằng tay, mất từ 30 giây đến 1 phút mới có kết quả, bác sĩ không thể xử lý kịp thời gây ảnh hưởng đến quá trình tưới máu lên não, gây nguy cơ tai biến mạch máu não ngay trong cuộc phẫu thuật.
Ê kíp bác sĩ khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ nhanh chóng tiêm thuốc màu xanh vào quầng vú, sau đó rạch đường da ở cách, cắt lấy hạch bắt màu xanh (hạch gác cửa) gửi giải phẫu bệnh. Trong thời gian này, ê kíp cắt tuyến vú trái. Sau 20 phút, kết quả từ phòng giải phẫu bệnh cho thấy hạch gác cửa có tế bào ác tính, điều này có nghĩa ung thư vú đã di căn hạch nách. Ê kíp tiếp tục nạo toàn bộ hạch nách trái cho bà T. và khâu các đường cắt. Cuộc phẫu thuật kết thúc trong 90 phút.
Lúc này, ê kíp bác sĩ Gây mê Hồi sức truyền thuốc hóa giải dãn cơ, lay tay chân, áp vào tai bà T., gọi: “Bà ơi, cuộc phẫu thuật thành công rồi, bà tỉnh lại nhé!”. Người bệnh hấp háy mi rồi từ từ mở mắt, được chuyển sang phòng Hồi tỉnh, được nhân viên y tế theo dõi liên tục trong 4 tiếng tiếp theo. Bác sĩ chỉ định xét nghiệm đánh giá hồng cầu, chức năng thận… đảm bảo sức khỏe ổn định và chuyển về khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ. Người bệnh xuất viện sau phẫu thuật 24 tiếng.
Khi tổng trạng và vết thương vùng ngực hồi phục, bà T. tiếp tục hóa trị, xạ trị để ngăn nguy cơ ung thư tái phát. Ở giai đoạn này, người bệnh có tiên lượng sống sau 5 năm là 70%. Trong khi đó, nếu phẫu thuật ở giai đoạn sớm ngay từ khi phát hiện, bà T. đã có tiên lượng sống đến 99% mà không cần hóa trị, xạ trị.

Trường hợp khác là ông T.V.M. (75 tuổi, Bình Dương) bị ung thư đại tràng giai đoạn 1, cần cắt 1 phần đại tràng có u ác tính và các hạch bạch huyết xung quanh u.
Ông M. bị tiểu đường 20 năm nay, suy tim, cũng từ chối phẫu thuật vì sợ “động dao kéo sẽ chết nhanh hơn” và bệnh nền nặng hơn. Được bác sĩ tư vấn kịp thời về lợi ích và nguy cơ của cuộc phẫu thuật nội soi, ông M. đồng ý điều trị.
Trước tình huống này, ê kíp bác sĩ Gây mê Hồi sức đánh giá, lên kế hoạch để đảm bảo cuộc phẫu thuật an toàn mà không ảnh hưởng đến đường huyết, chức năng tim mạch cho ông M. Tình trạng tiểu đường lâu năm khiến người bệnh có nguy cơ cao xơ cứng mạch máu, bệnh mạch vành, thiếu máu cơ tim trước, trong và sau mổ. Ê kíp bác sĩ phẫu thuật và Gây mê Hồi sức khám, đánh giá kỹ và tầm soát các biến chứng trên. Các bác sĩ kiểm soát đường huyết ở mức ổn định tránh biến chứng hôn mê nếu tăng đường huyết đột ngột hoặc hạ đường huyết khiến não tổn thương, thậm chí chết não.
Bác sĩ dùng thuốc điều hòa nhịp tim, giữ ổn định trong suốt quá trình phẫu thuật, đồng thời truyền dung dịch có chứa điện giải kiểm soát đường huyết và kali máu, đồng thời cung cấp năng lượng cho người bệnh trong lúc phẫu thuật… Phẫu thuật viên rạch đường 0,5cm – 1,2cm trên bụng người bệnh, đưa dụng cụ có gắn camera vào ổ bụng. Sau đó, bác sĩ nhìn màn hình tivi, xác định và cắt bỏ đoạn đại tràng mang u cùng các hạch bạch huyết gần đó.
Nhờ được phẫu thuật ngay ở giai đoạn sớm, ông M. có tiên lượng sống sau 5 năm là 90%, cơ hội chữa khỏi cao mà không cần điều trị bổ sung với hóa trị, xạ trị.
Thạc sĩ bác sĩ Huỳnh Bá Tấn, khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ, BVĐK Tâm Anh TP.HCM, cho biết phẫu thuật là phương pháp điều trị bệnh ung thư lâu đời, đóng vai trò quan trọng trong điều trị đa mô thức (phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, thuốc miễn dịch…), nhất là ở giai đoạn sớm. “Phẫu thuật không khiến ung thư và bệnh nền nặng thêm” – bác sĩ Tấn nói.
Thực tế một số trường hợp người bệnh sau mổ được bác sĩ cho biết giai đoạn bệnh nặng hơn so với trước mổ. Nguyên nhân có thể do các phương tiện chẩn đoán ung thư trước mổ như nội soi, chụp cắt lớp vi tính (CT), cộng hưởng từ (MRI)… đôi khi không phát hiện được hết các tổn thương, nhất là tổn thương nhỏ và rải rác.
Trong lúc mổ bác sĩ có thể phát hiện khối u đã lan tràn hơn dự kiến ban đầu. Điều này không phải do mổ làm bệnh nặng hơn mà do các khối u đã có từ trước, chỉ là chưa phát hiện được trên hình ảnh. Người bệnh từ chối phẫu thuật khiến khối u bùng phát và di căn nhanh hơn.
Hiện, các tiến bộ y học giúp bác sĩ chẩn đoán, đánh giá chính xác hơn giai đoạn bệnh trước mổ. Điều trị ung thư là phương pháp điều trị đa mô thức, chú trọng phối hợp nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, thuốc miễn dịch… vừa kiểm soát tại chỗ vừa khống chế di căn xa, giảm tối đa biến chứng và nâng cao hiệu quả điều trị. Những rủi ro của phẫu thuật như tụt huyết áp, chảy máu, nhiễm trùng… có nguy cơ xảy ra nhưng bác sĩ hoàn toàn có thể kiểm soát.
Sau phẫu thuật, tùy vào giai đoạn bệnh, mức độ xâm lấn của khối u và các yếu tố khác như tuổi tác, tổng trạng bệnh nhân, bệnh đi kèm… bác sĩ chỉ định phương pháp điều trị đặc hiệu tiếp theo (hóa trị, xạ trị, thuốc trúng đích, thuốc miễn dịch…). Điều này giúp phòng ngừa tái phát và nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
Bác sĩ Khương chia sẻ, người bệnh ung thư có nhiều bệnh nền, các nguy cơ tai biến trong cuộc phẫu thuật càng nhiều hơn, gây mê gặp nhiều khó khăn, cần ê kíp nhiều kinh nghiệm, hệ thống trang thiết bị máy móc hiện đại và thực hiện tại bệnh viện đa khoa.
Bác sĩ Khương lý giải, nếu gây mê, giảm đau không tốt, người bệnh có nguy cơ cao huyết áp, suy tim, thuyên tắc huyết khối, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não trong và sau mổ. Ê kíp bác sĩ cần phối hợp, lên chiến lược tối ưu hóa các thuốc sử dụng. “Sự phối hợp các loại thuốc cần đảm bảo kiểm soát bệnh nền này và không ảnh hưởng đến bệnh nền khác; cộng hưởng lợi ích và ít tác dụng phụ nhất” – bác sĩ Khương nói.
Thời gian gây mê cho phẫu thuật ở người nhiều bệnh nền có giới hạn nhất định, ngắn nhất có thể. Bởi thời gian càng dài thì tỷ lệ biến chứng càng cao. Đồng thời, bác sĩ phẫu thuật phải cắt nhanh chóng, chính xác, đảm bảo lấy sạch tế bào ung thư vừa đảm bảo thời gian an toàn.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH