Cường giáp là rối loạn chức năng tuyến giáp thường gặp, tỷ lệ mắc ở phụ nữ cao hơn nam giới và có thể xuất hiện ở phụ nữ mang thai. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ bầu và thai nhi. Dưới đây là những thông tin giải đáp thắc mắc: cường giáp khi mang thai có nguy hiểm không, dấu hiệu và điều trị bệnh thế nào, được bác sĩ chia sẻ.

Cường giáp khi mang thai là tình trạng tuyến giáp hoạt động quá mức, sản xuất quá nhiều hormone giáp, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi.
Ước tính cường giáp khởi phát ở khoảng 0,1% – 0,4% phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, cần phân biệt cường tuyến giáp do bệnh thực sự (phổ biến là Basedow) với cường tuyến giáp thoáng qua do thay đổi sinh lý trong giai đoạn mang thai. (1)
Cường giáp trong thai kỳ thường có nguyên nhân do bệnh Basedow. Đây là bệnh rối loạn miễn dịch, hệ miễn dịch tạo ra các kháng thể tấn công tuyến giáp, kích thích tuyến giáp sản xuất nhiều hormone giáp. Bệnh có thể xuất hiện lần đầu trong thai kỳ. Với phụ nữ có tiền sử mắc Basedow trước khi mang thai, các triệu chứng của bệnh có thể cải thiện trong tam cá nguyệt thứ 2 và thứ 3. (2)
Ngoài ra, thai phụ có thể bị bệnh do những nguyên nhân khác như:

Bệnh thường có các triệu chứng phổ biến như:
Cường giáp thoáng qua trong thai kỳ là tình trạng bệnh nhẹ và xảy ra ở tam cá nguyệt đầu tiên, do hormone hCG tăng cao trong thai kỳ kích thích hoạt động của tuyến giáp. Bệnh thường gặp ở phụ nữ mang thai bị nghén nặng. Thai phụ có triệu chứng buồn nôn, nôn nhiều nhưng không có bướu cổ rõ, không lồi mắt.
Kết quả xét nghiệm hormone và kháng thể cho thấy TSH (hormone kích thích tuyến giáp) giảm nhẹ, FT4 (dạng hoạt động của hormone tuyến giáp T4) tăng nhẹ và TRAb (kháng thể kháng thụ thể TSH) âm tính. Cường giáp thoáng qua trong thai kỳ thường sẽ tự hết và không cần điều trị bằng thuốc.
Còn cường giáp ở phụ nữ mang thai là bệnh tự miễn, do hệ miễn dịch sản sinh các kháng thể kích thích tuyến giáp, khiến tuyến này hoạt động quá mức và tăng sản xuất hormone giáp. Bệnh có thể khởi phát từ trước hoặc trong thai kỳ. Người bệnh có các triệu chứng kéo dài và rõ rệt như: tim đập nhanh, run tay, bướu cổ…
Xét nghiệm hormone và kháng thể cho thấy FT4 tăng, TSH rất thấp, TRAb dương tính. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách, bệnh có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm.

Bệnh có thể nguy hiểm với sức khỏe của cả thai phụ và thai nhi, nhất là khi bệnh xảy ra biến chứng. Hormone tuyến giáp quá cao ảnh hưởng đến nhiều cơ quan đích, làm tăng nguy cơ biến chứng thai kỳ ở mẹ và bé, như: tiền sản giật, suy tim, sảy thai, sinh non, chậm phát triển trí tuệ, cường tuyến giáp bẩm sinh…
Đặc biệt, nếu bệnh không được kiểm soát kịp thời có thể dẫn đến cơn bão giáp – biến chứng nguy hiểm có thể đe dọa tính mạng người bệnh.
Bệnh có thể ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cả mẹ bầu và thai nhi. Cụ thể:
Bệnh nếu không được điều trị trong thời kỳ mang thai có thể dẫn đến các biến chứng:
Mẹ bầu bị bệnh thì thai nhi cũng chịu nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe như:

Để chẩn đoán bệnh, bác sĩ cần kết hợp khám lâm sàng và các xét nghiệm, siêu âm tuyến giáp như:
Bác sĩ sẽ khai thác tiền sử bệnh của bản thân người bệnh và gia đình, nhất là tiền sử bệnh tự miễn tuyến giáp. Ngoài ra cần khai thác các triệu chứng người bệnh đang gặp phải như: mệt mỏi, sụt cân bất thường, tim đập nhanh, hồi hộp, run tay, đổ mồ hôi nhiều, cổ to, mắt lồi…
Đây là xét nghiệm cơ bản và quan trọng nhất để đánh giá chức năng tuyến giáp. Người bệnh cường giáp thường có nồng độ TSH rất thấp và FT4 cao, dương tính với TRAb.
Siêu âm giúp bác sĩ đánh giá bất thường trong cấu trúc và kích thước tuyến giáp. Phương pháp này không xâm lấn và an toàn cho thai phụ. Người bệnh cường giáp do Basedow thường có tuyến giáp phì đại lan tỏa.
Phụ nữ mang thai bị bệnh mức độ nhẹ (nồng độ hormone tuyến giáp tăng nhẹ, triệu chứng tối thiểu, sức khỏe thai phụ và thai nhi ổn định) thường được theo dõi chặt chẽ, chưa cần điều trị. Khi bệnh tiến triển và các triệu chứng nghiêm trọng, người bệnh được chỉ định sử dụng thuốc kháng giáp tổng hợp, trong đó hoạt chất propylthiouracil (PTU) được ưu tiên trong tam cá nguyệt đầu tiên. (3)
Ngoài ra, bác sĩ có thể chỉ định người bệnh sử dụng thêm thuốc chẹn beta để kiểm soát các triệu chứng hồi hộp, run tay, tuy nhiên chỉ nên sử dụng hạn chế.
Với người bệnh không đáp ứng điều trị với thuốc kháng giáp, bác sĩ có thể chỉ định phẫu thuật cắt bỏ 1 phần hoặc toàn bộ tuyến giáp. Phẫu thuật này có thể thực hiện an toàn trong tam cá nguyệt thứ 2.
Chống chỉ định dùng i-ốt phóng xạ điều trị bệnh trong thời kỳ mang thai, bởi có thể gây ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp, gây suy giáp vĩnh viễn ở thai nhi.

Phụ nữ bị cường giáp cần được chăm sóc, theo dõi và điều trị bệnh bởi bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường và bác sĩ Sản khoa:
Nguyên nhân phổ biến của bệnh là do bệnh tự miễn Basedow, do đó không thể phòng ngừa hoàn toàn. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể giảm nguy cơ mắc bệnh và phát hiện bệnh sớm bằng cách:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, cường giáp khi mang thai có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi, đặc biệt là khi bệnh có biến chứng. Do đó, phụ nữ mang thai nên đến bệnh viện để kiểm tra, xét nghiệm chức năng tuyến giáp và khám thai định kỳ theo lịch hẹn của bác sĩ, nhất là người có tiền sử rối loạn tuyến giáp, bệnh tự miễn…