Giun lươn là ký sinh trùng nguy hiểm trong đường tiêu hóa. Loại ký sinh trùng này có thể tồn tại rất lâu trong cơ thể con người, gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Phát hiện sớm tình trạng nhiễm giun và điều trị kịp thời sẽ giúp giảm nguy cơ xuất hiện biến chứng nặng.
Bệnh giun lươn (strongyloides stercoralis) được phát hiện đầu tiên ở Nam Bộ, Việt Nam vào năm 1876. Tần suất bệnh thực sự khó xác định vì phần lớn thường là nhiễm trùng tiềm ẩn (2- 20%). Biểu hiện có thể thay đổi từ không triệu chứng đến suy đa cơ quan. Tử suất của người bệnh nhiễm giun lươn nhập 3viện 16,7%. Trên người suy giảm miễn dịch có thể gây bệnh lý nhiễm giun lươn lan tỏa gây tử vong.
Bệnh có hai loại hình thái gồm giun lươn ký sinh và giun lươn sống tự do trong môi trường ngoài cơ thể ký chủ. Ấu trùng xâm nhập qua da vào hệ bạch huyết và hệ tĩnh mạch vào vòng tuần hoàn đến phổi, khí quản, thực quản, dạ dày và phần đầu ruột non định vị tại đó. Ấu trùng khi đến phổi có thể không vào phế nang mà luân chuyển trong máu và đến các cơ quan khác. Trong quá trình di chuyển, ấu trùng phải trải qua hai lần lột xác để trưởng thành.
Giun trưởng thành thường sống ở tá hỗng tràng. Những trường hợp nhiễm nặng có thể gặp ở dạ dày, môn vị, đại tràng, đường mật… Mỗi giun trưởng thành có thể sống tới 5 năm và tiếp tục chu trình sinh sản. Trứng giun xuất hiện sau 28 ngày bị nhiễm. Giun lươn là loại ký sinh trùng duy nhất tìm thấy ấu trùng trong phân (không phải trứng). Trứng giun lươn chỉ được tìm thấy khi tiêu chảy ồ ạt trong trường hợp bệnh nặng, trứng không kịp nở ra ấu trùng trong ruột mới theo phân ra ngoài. Trong điều kiện khí hậu thuận lợi, ấu trùng có thể phát triển thành giun lươn tự do sống ở ngoại cảnh.
Trong một vài trường hợp như táo bón lâu ngày, giảm nhu động ruột, bệnh túi thừa, ấu trùng không được thải theo phân ra ngoài thì có thể chui qua vách ruột vào hệ tuần hoàn rồi tiếp tục chu trình ký sinh như trên. Hệ thần kinh trung ương, gan và phổi là nơi thường gặp của chu trình tự nhiễm này. Chu trình tự nhiễm này đặc biệt trên người suy giảm miễn dịch là nguyên nhân tái nhiễm kéo dài dù đã ra khỏi vùng dịch tễ, có thể kéo dài tới 36 năm.(2)
Khi có triệu chứng nghi ngờ người bệnh cần tư vấn và điều trị ở bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa có kinh nghiệm.
Thuốc được lựa chọn hàng đầu là Ivermectin do hiệu quả cao, ít tác dụng phụ. Thiabendazole hiệu quả cao nhưng khả năng dung nạp kém. Albendazole là thuốc lựa chọn thay thế.(3)
Trung tâm Nội soi và Phẫu thuật nội soi tiêu hóa (BVĐK Tâm Anh TP.HCM) và Khoa Tiêu hóa – Gan mật – Tụy (BVĐK Tâm Anh Hà Nội) là những trung tâm y tế chuyên khoa Tiêu hóa uy tín, cung cấp dịch vụ thăm khám và điều trị cao cấp, hiệu quả cho các bệnh nhân mắc các vấn đề về gan từ nhẹ đến nặng (gan nhiễm mỡ, viêm gan cấp tính, mạn tính, xơ gan, ung thư gan…). Hệ thống BVĐK Tâm Anh quy tụ đội ngũ bác sĩ Nội khoa – Ngoại khoa – Nội soi tiêu hóa chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, bên cạnh đó là sự hỗ trợ của hệ thống thiết bị y tế hiện đại, nhập khẩu từ nước ngoài, phục vụ tối đa nhu cầu thăm khám và điều trị của khách hàng.
Để đặt lịch thăm khám và điều trị các bệnh về gan với các chuyên gia bác sĩ về Tiêu hóa của Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, xin vui lòng liên hệ:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Những thông tin trên đây là nguyên nhân, triệu chứng và hướng điều trị bệnh giun lươn. Nếu nghi ngờ dấu hiệu nhiễm giun, người bệnh cần nhanh chóng tới các cơ sở y tế uy tín để được tiến hành thực hiện các chẩn đoán để có biện pháp xử trí kịp thời, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm.