HPV type 18 được biết đến là một trong các chủng virus nguy cơ cao có khả năng gây ung thư cổ tử cung và một số bệnh ung thư nguy hiểm ở cả nam và nữ giới. Điều đó không có nghĩa rằng, người nhiễm HPV type 18 chắc chắn sẽ bị ung thư mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác như thể trạng mỗi người, thời điểm phát hiện, liệu trình điều trị,…
Bài viết được tư vấn Y khoa bởi BS Trần Huỳnh Tấn – Quản lý Y khoa vùng 1 Hồ Chí Minh, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC.
BS Trần Huỳnh Tấn – Quản lý Y khoa vùng 1 Hồ Chí Minh, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết, HPV các type 18, 16, 45 và 56 thường có liên quan các tổn thương loạn sản nặng và ung thư cổ tử cung xâm nhập. HPV type 18 liên quan ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô kém biệt hóa cổ tử cung, tỷ lệ di căn hạch và khả năng tái phát bệnh. Ngoài ra, HPV type 18 còn là nguyên nhân của ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, ung thư dương vật, ung thư hậu môn ở cả nam và nữ.
HPV là tên viết tắt của Human Papilloma Virus – một loại virus phổ biến lây truyền qua đường sinh dục ở người. Các nhà khoa học cho biết, HPV có hơn 200 chủng, trong đó có 40 chủng gây bệnh ở đường sinh dục và khoảng 15 chủng nguy cơ cao có khả năng gây ung thư điển hình như HPV type 18 và 16.
Tỷ lệ lây nhiễm HPV khá phổ biến trong cộng đồng. Trong phần lớn trường hợp, cơ thể có khả năng tự đào thải virus sau 2 năm. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp nhiễm HPV kéo dài dai dẳng, đặc biệt là nhiễm các type HPV nguy cơ cao, có khả năng dẫn đến ung thư trong tương lai.
HPV type 18 là chủng huyết thanh nguy hiểm, tiến triển nhanh, đặc biệt khi có các yếu tố khác như có nhiều bạn tình, quan hệ sớm, quan hệ không an toàn,… Theo thời gian, nếu không có sự kiểm soát và điều trị, HPV type 18 có khả năng biến đổi cấu trúc các mô, hình thành tế bào nguy hại gây ung thư cho người bệnh. (1)
Nếu nhận được kết quả dương tính với HPV type 18, người bệnh cũng không nên quá hoang mang, lo lắng để tránh làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Xét nghiệm dương tính với HPV type cũng không đồng nghĩa với việc chắc chắn bạn sẽ bị ung thư.
Dựa trên kết quả xét nghiệm HPV, các bác sĩ có thể xây dựng kế hoạch theo dõi sức khỏe và điều trị phù hợp với bệnh nhân. Song song đó, bệnh nhân có thể được chỉ định thực hiện thêm một số xét nghiệm loại trừ ung thư, tái khám thường xuyên để sớm phát hiện các dấu hiệu bất thường về sức khỏe liên quan đến HPV.
Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư thường gặp nhất ở nữ giới, là nguyên nhân tử vong thứ 2 sau ung thư vú. HPV được xem là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư cổ tử cung.
Trong đó HPV các type 16, 18, 45 và 56 thường có liên quan các tổn thương loạn sản nặng và ung thư cổ tử cung xâm nhập. HPV type 18 liên quan ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô kém biệt hóa cổ tử cung, tỷ lệ di căn hạch và khả năng tái phát bệnh.
Điều trị ung thư cổ tử cung hiện có nhiều phương pháp như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị,… Việc lựa chọn phương pháp điều trị nào còn phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, thể trạng chung của người bệnh, tổn thương tại chỗ. Dù bác sĩ chỉ định phương pháp nào thì mục tiêu điều trị chung vẫn là kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân, giảm biến chứng đến mức thấp nhất, giúp người bệnh có chất lượng sống tốt hơn sau điều trị. Nếu được phát hiện giai đoạn sớm, ung thư cổ tử cung có tỷ lệ điều trị khỏi cao.
Ung thư hậu môn xảy ra khi các tế bào ung thư xuất hiện trong các mô ở hậu môn, tích lũy dần và tạo thành khối u. Ở giai đoạn muộn, các tế bào ung thư xâm lấn các mô lân cận, tách khỏi khối u ban đầu và tạo nên hiện tượng di căn.
Ung thư hậu môn chia làm 4 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn I và II là lúc các tế bào ung thư chưa di căn. Từ giai đoạn 3, khối u đã xâm lấn tới hạch bạch huyết hoặc các cơ quan lân cận như bàng quang, tử cung, âm hộ, âm đạo… Giai đoạn 4 cũng là giai đoạn cuối của bệnh, quỹ thời gian sống sót của người bệnh lúc đó đã không còn nhiều.
Hơn 90% trường hợp ung thư hậu môn ở cả nam và nữ có liên quan đến HPV. Một số yếu tố nguy cơ cao làm tăng tỷ lệ lây truyền HPV qua hậu môn có thể kể đến như: quan hệ tình dục đường hậu môn không sử dụng biện pháp an toàn, nhiễm HIV, suy giảm miễn dịch, tuổi tác, gia đình có người mắc bệnh…
Ung thư hậu môn thường phổ biến ở nam giới trước 35 tuổi và nữ giới sau 50 tuổi. Khoảng 20% ca ung thư hậu môn không có biểu hiện triệu chứng. Các trường hợp còn lại có triệu chứng dễ nhầm lẫn với bệnh trĩ, hội chứng ruột kích thích và nhiều bệnh đường tiêu hóa khác. Theo thống kê của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh CDC Hoa Kỳ, mỗi năm ghi nhận 2.100 nam giới 4.400 nữ giới mắc ung thư hậu môn.
Ung thư âm đạo cũng là căn bệnh khá hiếm gặp ở nữ giới, chiếm khoảng 2% các bệnh lý ung thư phụ khoa. Ước tính hằng năm, tỷ lệ mắc ung thư âm đạo ở nữ giới là 1/100.000 người mắc. Ung thư âm đạo thường gặp ở nữ giới từ 50-60 tuổi, song ung thư ngày càng có tốc độ trẻ hóa nhanh chóng, các ca ung thư âm đạo ở người trẻ dần xuất hiện nhiều hơn.
Một trong các nguyên nhân chính dẫn đến ung thư âm đạo là do nhiễm HPV nguy cơ cao. Hiện các phương pháp điều trị ung thư âm đạo có thể kể đến gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị. Tuy nhiên, phẫu thuật ung thư âm đạo thường khó khăn, do vị trí bướu âm đạo liên quan đến các cơ quan quan trọng như bàng quang, niệu đạo, trực tràng.
Nếu vùng mổ lấy u không đủ rộng, không đủ an toàn, ung thư sẽ dễ tái phát. Nếu bướu quá to, lan rộng, bác sĩ có thể phải cắt bỏ gần như hoàn toàn âm đạo, hay toàn bộ cơ quan trong vùng chậu, ảnh hưởng đến chất lượng sống sau này và đời sống tình dục.
HPV type 18 nói riêng và HPV nói chung có khả năng lây truyền qua nhiều con đường. Phổ biến nhất là lây truyền qua đường tình dục, khi có hành vi quan hệ không sử dụng biện pháp an toàn, có nhiều bạn tình, quan hệ bằng đường miệng.
Tuy nhiên, lây truyền qua đường quan hệ không phải là con đường lây nhiễm HPV duy nhất. Virus này có khả năng tồn tại nhiều ngày trên các bề mặt như dụng cụ vệ sinh cá nhân, quần áo, các thiết bị phụ khoa không được vệ sinh sạch sẽ.
Như vậy, dù không quan hệ tình dục, vẫn có thể nhiễm virus thông qua việc dùng chung đồ dùng cá nhân như quần lót, khăn tắm, hoặc mầm bệnh lây nhiễm qua vết xước, vết thương hở trên da.
Xét nghiệm HPV giúp bác sĩ đánh giá nguy cơ ung thư chứ không nhằm mục đích khẳng định đối tượng xét nghiệm có ung thư hay không. Xét nghiệm HPV thường được chỉ định thực hiện đồng thời với xét nghiệm Pap, nhằm giúp phát hiện sớm các bất thường.
Xét nghiệm HPV cho ra kết quả âm tính hoặc dương tính. Nếu kết quả dương tính, người xét nghiệm chắc chắn đã nhiễm HPV. Kết quả âm tính không khẳng định 100% người xét nghiệm không nhiễm HPV, do xét nghiệm HPV hiện chỉ có khả năng phát hiện tối đa 40 chủng virus.
Bên cạnh xét nghiệm HPV, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện thêm một số phương pháp xét nghiệm khác như soi cổ tử cung bằng ống kính phóng đại, sinh thiết và tiếp tục theo dõi định kỳ.
Xét nghiệm Pap (hay Pap smear) là phương pháp lấy dịch âm đạo trong quá trình thăm khám phụ khoa để tiến hành xét nghiệm. Mục đích của xét nghiệm Pap nhằm tìm kiếm sự thay đổi của tế bào cổ tử cung. Đây được xem là phương pháp quan trọng quan sát những biến đổi bất thường của tế bào cổ tử cung. Từ đó giúp bác sĩ phát hiện có bất thường hay không để tiến hành xét nghiệm chuyên sâu nhằm khẳng định bệnh.
Xét nghiệm Pap thường được chỉ định ở người sau 21. Xét nghiệm mỗi 2-3 năm/ lần. Sau 30 tuổi, xét nghiệm Pap được khuyến cáo thực hiện mỗi 3-5 năm, kết hợp cùng xét nghiệm HPV. Những đối tượng nguy cơ cao như: người được phát hiện có tế bào tiền ung thư, người nhiễm HIV, người từng hóa trị, bệnh nhân ghép tạng… cần được xét nghiệm định kỳ thường xuyên.
Hiện chưa có bất kỳ xét nghiệm HPV nào ở nam giới được khuyến cáo và thông qua. Tuy vậy, nam giới lại có xác suất nhiễm HPV trung bình lên đến 91%, trong khi con số này ở nữ giới là 85%. Tỷ lệ lây nhiễm cao, chưa có phương pháp tầm soát gia tăng khả năng lây nhiễm HPV ở nam giới cho bạn tình, chẩn đoán trễ, tỷ lệ tử vong cao.
Hiện chưa có thuốc diệt HPV. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp nhiễm HPV, cơ thể có thể tự đào thải virus sau vài năm. Song song đó, người nhiễm virus cần tuân thủ theo hướng dẫn điều trị và lịch thăm khám định kỳ do bác sĩ chỉ định.
Nhiễm các type HPV nguy cơ cao như HPV type 18 không đồng nghĩa với việc chắc chắn bạn sẽ mắc ung thư. Bạn có thể phòng ngừa nguy cơ ung thư do chủng virus này bằng cách tầm soát ung thư cổ tử cung theo đúng lịch khuyến cáo của bác sĩ. Từ đó, sớm phát hiện các tổn thương tiền ung thư và loại trừ sớm các tổn thương này, loại bỏ nguy cơ tiến triển thành ung thư trong tương lai.
Vắc xin HPV được khuyến nghị cho trẻ em trai, trẻ em gái, nam và nữ giới từ 9 đến 45 tuổi. Trong đó, 9-14 là “tuổi vàng” để chủng ngừa, cũng là nhóm nên được ưu tiên tiêm. Vắc xin được chứng minh có hiệu quả bảo vệ lên đến 30 năm. Các bằng chứng khoa học chỉ ra kháng thể có thể duy trì ở nồng độ cao, không suy giảm theo thời gian khi tiêm cho trẻ em 9-14 tuổi.
Vắc xin có hiệu quả hơn 90% trong việc phòng ngừa các bệnh ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư vòm họng, mụn cóc sinh dục… Theo CDC Mỹ, tỷ lệ nhiễm virus gây ung thư, mụn cóc sinh dục giảm 88% ở trẻ em gái, 81% ở phụ nữ trẻ, tỷ lệ thanh thiếu niên và thanh niên bị mụn cóc sinh dục ngày càng giảm. Trong số phụ nữ sử dụng vắc xin, tỷ lệ tiền ung thư cổ tử cung do HPV đã giảm 40%.
Hiện Việt Nam có 2 loại vắc xin phòng HPV gồm: Vắc xin Gardasil 9 và vắc xin Gardasil. Cả hai loại vắc xin đều được sản xuất tại Mỹ. Trong đó, vắc xin Gardasil 9 được xem là vắc xin bình đẳng giới khi có thể tiêm cho nam và nữ ở độ tuổi từ 9-26, bảo vệ khỏi 9 type HPV gồm 18, 6, 11, 16, 31, 33, 45, 52 và 58 gây ung thư cổ tử cung, ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, mụn cóc sinh dục, các tổn thương tiền ung thư hoặc loạn sản…, với hiệu quả bảo vệ lên đến trên 90%.
Vắc xin Gardasil hiện được chỉ định cho trẻ em gái và nữ giới từ 9-26 tuổi phòng ngừa nguy cơ mụn cóc sinh dục và ung thư phụ khoa do HPV type 18, 16, 6 và 11.
Để được tư vấn, giải đáp các thông tin xoay quanh vắc xin phòng HPV, quý Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với VNVC thông qua hotline 028.7102.6595 hoặc inbox qua fanpage facebook VNVC – Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em & Người lớn hoặc đến ngay các trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc để được nhân viên chăm sóc Khách hàng hướng dẫn chi tiết, được bác sĩ thăm khám sàng lọc, tư vấn sức khỏe và chỉ định tiêm ngừa phù hợp. Tra cứu trung tâm tiêm chủng VNVC gần nhất tại đây.
Các bệnh ung thư nói chung thường có triệu chứng mờ nhạt ở giai đoạn đầu, tiến triển chậm. Các triệu chứng của ung thư cũng có thể bị nhầm lẫn với các bệnh viêm nhiễm phụ khoa, khiến người bệnh chủ quan tự điều trị tại nhà, không thăm khám dẫn đến bệnh tiến vào giai đoạn muộn, điều trị khó khăn, nguy cơ biến chứng cao.
Theo thống kê của Tổ chức Nghiên cứu ung thư độc lập lớn nhất thế giới, có khoảng 95% người bệnh ung thư cổ tử cung ở Anh sống sót sau ung thư từ 5 năm trở lên, nếu được chẩn đoán và điều trị sớm ngay từ giai đoạn đầu của bệnh. Tỷ lệ này sẽ giảm dần chỉ còn 15% nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn cuối của bệnh. Qua đó, ta thấy được tầm quan trọng của việc thăm khám sức khỏe định kỳ nhằm sớm phát hiện những bất thường liên quan đến ung thư.
Quan hệ tình dục không an toàn, nhiều bạn tình là những yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm HPV ở cả hai giới. Để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm virus, người dân cần xây dựng thói quen quan hệ tình dục an toàn, một vợ một chồng và tốt nhất nên kết hợp với việc tiêm vắc xin càng sớm càng tốt để nâng cao hiệu quả bảo vệ.
Không thường xuyên vệ sinh bộ phận sinh dục, vệ sinh không đúng cách cũng có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm virus, gặp phải các vấn đề viêm nhiễm phụ khoa, ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản. Cần có thói quen tắm rửa thường xuyên, vệ sinh vùng sinh dục mỗi ngày đặc biệt là sau mỗi lần tiểu tiện, đại tiện. Luôn giữ bộ phận sinh dục sạch sẽ, không sử dụng chung khăn/ quần lót để tránh nguy cơ lây nhiễm virus. Thay đồ lót thường xuyên và tránh mặc quần chật.
Thói quen ăn uống lành mạnh tuy không thể phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm HPV type 18, nhưng có hiệu quả tăng cường đề kháng cho cơ thể, giúp cơ thể khỏe mạnh có khả năng chống lại virus và các tác nhân gây bệnh bên ngoài môi trường. Bạn cần học cách cân bằng khẩu phần ăn bằng cách bổ sung đầy đủ rau xanh, thịt/ cá, trái cây và các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng khác trong thực đơn hằng ngày.
Hạn chế hoặc không ăn các loại thức ăn nhanh có nhiều dầu mỡ, cay nóng. Không sử dụng rượu, bia, chất kích thích vì có thể làm suy yếu miễn dịch tự nhiên của cơ thể.
HPV type 18 có thể tự đào thải. Tuy nhiên, một người có thể tái nhiễm HPV nhiều lần trong đời nếu không được bảo vệ bởi vắc xin hoặc có thói quen quan hệ không an toàn, quan hệ nhiều bạn tình.
Hiện chưa có nghiên cứu khẳng định mối quan hệ giữa những nụ hôn và nguy cơ lây truyền HPV. Tuy nhiên, theo kết quả của một số nghiên cứu, hôn sâu vẫn có khả năng lây truyền HPV cao hơn. Tuy nhiên đây vẫn chưa phải là con đường lây truyền phổ biến của HPV. Trong tương lai cần có thêm nhiều cuộc nghiên cứu để loại trừ khả năng này.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
HPV type 18 được phân loại là một trong các chủng virus nguy cơ cao, có khả năng dẫn đến ung thư ở nam và nữ. Tuy nhiên, nhiễm virus không khẳng định được việc bạn sẽ chắc chắn bị ung thư. Khi có kết quả xét nghiệm dương tính HPV type 18, người dân không nên quá hoang mang mà hãy tuân thủ theo hướng dẫn tái khám và điều trị của bác sĩ. Mặt khác, cần chủ động phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm virus bằng vắc xin để bảo vệ bản thân, những người xung quanh và cả cộng đồng.