HPV type 16 là type có nguy cơ cao gây các bệnh lý ung thư ác tính như ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, ung thư dương vật. Mặc dù hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu HPV type 16, hầu hết các phương pháp điều trị đều tập trung vào việc xử lý các tổn thương tiền ung thư và ung thư, cũng như tăng cường hệ miễn dịch.
Chính vì vậy, chủ động phòng ngừa bằng cách tiêm vắc xin HPV, sử dụng biện pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục và thực hiện các xét nghiệm sàng lọc định kỳ là những biện pháp quan trọng giúp giảm nguy cơ nhiễm HPV type 16 và các bệnh lý liên quan, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Bài viết được tư vấn bởi BS Phạm Văn Phú – Quản lý Y khoa khu vực 3 Đông Nam Bộ, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC
HPV type 16 là tuýp virus HPV phổ biến và nguy hiểm nhất, không chỉ gây ra ung thư cổ tử cung và các bệnh nguy hiểm ở nữ giới, tỷ lệ nam giới mắc các bệnh do HPV type 16 cũng đang gia tăng nhanh khi mà nghiên cứu cho thấy độ lưu hành HPV ở nam giới (khoảng 91%) cao hơn nữ giới (khoảng 85%) ở mọi lứa tuổi. Đồng thời, nam giới có tỷ lệ thải loại HPV ra khỏi cơ thể thấp hơn nữ giới đến 26%, điều này đồng nghĩa với việc một khi nhiễm HPV thì nam giới có nguy cơ chung sống với HPV suốt đời.
HPV có tên khoa học là Human Papilloma Virus. Đây là virus gây ra các u nhú trong cơ thể người. Có hơn 200 tuýp HPV khác nhau được chia thành nhóm có nguy cơ thấp và nhóm có nguy cơ cao gây ung thư.
Nhóm có nguy cơ thấp bao gồm các tuýp HPV 6, 11, 40, 42, 43, 44, 53, 54, 61, 72, 73 và 81. Trong đó, HPV 6, HPV 11 là thủ phạm gây ra phần lớn mụn cóc trên hoặc xung quanh các bộ phận sinh dục, kể cả hậu môn của cả hai giới. Nhóm có nguy cơ cao gây ung thư gồm các tuýp HPV 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66 và 68. Trong đó, HPV type 16 và 18 là những thủ phạm hàng đầu trực tiếp gây ra các bệnh ung thư liên quan đến HPV. (1)
CÓ! Các chuyên gia y tế cho biết, kết quả xét nghiệm dương tính HPV type 16 đồng nghĩa với việc có sự hiện hữu của HPV gây ung thư cổ tử cung và các bệnh lý nguy hiểm trong cơ thể. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) cho biết HPV type 16 cùng với HPV type 18 là tác nhân gây ra khoảng 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn cầu. (2)
Ngoài ung thư cổ tử cung, HPV type 16 cũng liên quan đến các bệnh ung thư khác như ung thư hậu môn, ung thư dương vật và ung thư hầu họng. Thực tế nhiều trường hợp nhiễm HPV type 16 sẽ không biểu hiện triệu chứng ngay lập tức nhưng virus có thể âm thầm phát triển và gây ra các tổn thương tiền ung thư hoặc ung thư nếu người bệnh không phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Chính vì vậy, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ nhấn mạnh việc kiểm tra sức khỏe và tầm soát định kỳ là rất quan trọng để phát hiện sớm và kiểm soát các vấn đề sức khỏe liên quan đến HPV chủng 16, từ đó ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng, bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và toàn xã hội.
HPV type 16 là loại virus có mức độ nguy hiểm cao, bởi chúng thường không gây ra triệu chứng rõ ràng trong giai đoạn đầu mà âm thầm tiến triển và chỉ bộc phát khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Đây là một trong những lý do khiến HPV chủng 16 rất nguy hiểm. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người nhiễm HPV tuýp 16 có thể dẫn đến nguy cơ mắc các loại ung thư nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh. Cụ thể: (3)
Trong số hơn 200 tuýp HPV, hai loại HPV type 16 và 18 chịu trách nhiệm cho khoảng 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung. HPV được chứng minh là có khả năng nhiễm sâu vào tử cung của nữ giới và làm thay đổi tế bào trong lớp biểu mô của cổ tử cung, từ đó tạo ra các tổn thương tiền ung thư và có thể phát triển thành ung thư sau nhiều năm. Ngoài ung thư cổ tử cung, phụ nữ nhiễm HPV chủng 16 còn có nguy cơ mắc các bệnh lý khác như ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, và sùi mào gà.
Tuy nhiên, việc dương tính với HPV type 16 không có nghĩa là chắc chắn sẽ bị ung thư cổ tử cung. Bởi đa số trường hợp có thể tự đào thải virus sau 1-2 năm, các trường hợp không đào thải được mới tiến triển thành ung thư. Những đối tượng như nhiễm HIV, người có hệ miễn dịch suy giảm, tuổi tác cao là những đối tượng có nguy cơ cao mắc ung thư cổ tử cung nếu không có biện pháp phòng ngừa chủ động.
Ung thư dương vật rất hiếm gặp, xếp thứ 17 trong số các loại ung thư phổ biến ở nam giới. Nguyên nhân chính gây ra bệnh là HPV, đặc biệt là các HPV type 16 và 18. Nam giới mắc ung thư dương vật thường xuất hiện các biểu hiện như thay đổi độ dày hoặc màu da, phát ban, xuất hiện các nốt sần nhỏ, cục u có thể chảy máu, sưng, tiết dịch có mùi hôi và nổi cục dưới da ở vùng bẹn.
Nguy cơ mắc ung thư dương vật được nhận định là tăng lên ở những người nhiễm HIV/AIDS và những người quan hệ tình dục với nam giới. Hiện nay chưa có bất kỳ phương pháp xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn ở nam giới được chấp nhận để phát hiện sớm ung thư dương vật. Vì vậy hầu hết các trường hợp phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn, lúc này tổn thương có thể lan đã ra toàn bộ dương vật, ảnh hưởng đến da bìu và da vùng mu. Khối u có thể gây tắc nghẽn mạch máu làm cho dương vật cương cứng từ đầu đến gốc.
Ngoài ra, khối u còn có thể xâm lấn tuyến tiền liệt và cổ bàng quang, gây ra các triệu chứng của di căn xa, như ở phổi và xương rất nguy hiểm.
HPV type 16 còn có khả năng gây ra ung thư hậu môn ở cả hai giới. Nguy cơ mắc bệnh cao hơn ở những người nhiễm HIV/AIDS và những người trong cộng đồng LGBT thường xuyên quan hệ tình dục đồng giới.
Theo thống kê của GLOBOCAN năm 2020, Việt Nam có 579 trường hợp mắc mới khiến 321 người tử vong do ung thư hậu môn. Ở Mỹ, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) cũng ghi nhận mỗi năm có khoảng 14.800 nam giới và 21.100 nữ giới mắc các bệnh ung thư do HPV, trong đó 2.100 nam giới và 4.400 nữ giới mắc ung thư hậu môn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ung thư hậu môn rất khó phát hiện bởi triệu chứng của bệnh có thể giống với bệnh trĩ, hội chứng ruột kích thích và các bệnh lý đường tiêu hóa khác, bao gồm: thay đổi thói quen đi tiêu, phân nhỏ, khó rặn khi đi tiêu; các biểu hiện bất thường ở hậu môn như chảy máu, tiết dịch nhầy, mủ, đau, cảm giác nặng, khối u và ngứa. Ngoài ra, 20% các trường hợp mắc bệnh không có triệu chứng. Do đó, việc chủ động nhận biết các triệu chứng ung thư hậu môn là rất quan trọng để điều trị hiệu quả, tránh các biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.
HPV type 16 được tìm thấy trong một số tổn thương ung thư vùng miệng và hầu họng ở cả nam giới và nữ giới. Phần lớn các khối u này xuất hiện ở mặt sau họng, đặc biệt là khu vực đáy lưỡi và amidan. Đây là một trong số các loại ung thư phổ biến ở nam giới. (4)
Hiện tại, chưa có xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn để phát hiện sớm các tổn thương ung thư liên quan đến HPV ở khu vực này. Ung thư vòm họng thường không có triệu chứng rõ ràng và dễ bị nhầm lẫn với các bệnh viêm mũi họng thông thường. Vì vậy, việc phòng ngừa và chủ động phát hiện bệnh sớm là rất quan trọng.
Phần lớn các trường hợp chẩn đoán mắc ung thư âm đạo đều có sự hiện diện của HPV. Các tổn thương tiền ung thư do HPV gây ra có thể tồn tại trong nhiều năm trước khi phát triển thành ung thư. Những tổn thương này có thể được phát hiện thông qua xét nghiệm Pap – phương pháp được sử dụng phổ biến ở nữ giới để kiểm tra các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung.
Trường hợp phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư, ung thư âm đạo có thể được chữa khỏi bằng cách ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư trước khi bệnh tiến triển sang giai đoạn nguy hiểm.
HPV type 16 có thể dẫn đến ung thư âm hộ, bộ phận bên ngoài của cơ quan sinh dục nữ. Dấu hiệu nhận biết thường bắt đầu từ những tổn thương nhỏ trên bề mặt âm hộ: u nhú hoặc vết loét, phần da ở âm hộ thay đổi màu sắc, ngứa âm hộ kéo dài, căng tức âm hộ, chảy máu âm đạo bất thường…
Theo thời gian, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, những tổn thương này có thể phát triển thành ung thư xâm lấn. Do đó, việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể làm tăng cơ hội điều trị hiệu quả và giảm thiểu các tác động nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh.
Để chủ động phòng ngừa bệnh, việc tìm hiểu về con đường lây truyền của HPV là rất quan trọng. Theo các chuyên gia, tất cả những người đã từng quan hệ tình dục đều có nguy cơ bị nhiễm HPV nói chung và HPV type 16 nói riêng.
Tuy nhiên, con đường lây nhiễm HPV type 16 rất đa dạng, không chỉ lây qua quan hệ tình dục, mà chúng còn có thể lây từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở, cũng như qua tiếp xúc trực tiếp giữa tay và bộ phận sinh dục.
Ngoài ra, HPV cũng có thể được truyền qua quan hệ miệng hoặc trong quá trình thực hiện các thủ thuật y tế không đảm bảo vệ sinh, vô khuẩn, chẳng hạn như việc khám phụ khoa hoặc nạo hút thai. Nguy cơ nhiễm HPV cũng được cho là gia tăng ở những người có đời sống tình dục phong phú, có nhiều bạn tình, thường xuyên thay đổi cách thức quan hệ, hoặc quan hệ đồng giới mà không sử dụng biện pháp bảo vệ.
Xét nghiệm HPV thường được dùng để phát hiện sự hiện diện của HPV trong cơ thể – loại virus có khả năng gây ra những thay đổi bất thường ở tế bào cổ tử cung. Đối với phụ nữ trên 30 tuổi, các chuyên gia khuyến cáo nên thực hiện xét nghiệm HPV song song với xét nghiệm Pap để phát hiện sớm các bất thường và loại bỏ các tổn thương trước khi chúng tiến triển thành ung thư.
Xét nghiệm PAP (còn gọi là xét nghiệm Papanicolaou, phết PAP, phết tế bào cổ tử cung) là phương pháp tầm soát giúp kiểm tra và phát hiện các biến đổi bất thường cũng như những thay đổi tiền ung thư hoặc ung thư trong tế bào cổ tử cung do HPV type 16 và 18 gây ra.
Xét nghiệm PAP được thực hiện bằng cách thu thập mẫu tế bào từ cổ tử cung, sau đó phết lên lam kính và gửi đến phòng Lab để xử lý và phân tích dưới kính hiển vi. Độ nhạy của xét nghiệm PAP nằm trong khoảng 50 – 75% và độ đặc hiệu đạt từ 80 – 90% tùy thuộc vào phương pháp thực hiện. Nếu kết quả PAP cho thấy có bất thường, các bác sĩ sẽ chỉ định người bệnh thực hiện thêm các phương pháp khác như soi cổ tử cung và sinh thiết để xác định chính xác xem có ung thư hay không.
Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, hiện tại không có xét nghiệm nào được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt cho việc sàng lọc HPV ở nam giới. Đối với nam giới có nguy cơ cao nhiễm HPV type 16 và mắc ung thư hậu môn, có thể thực hiện xét nghiệm tế bào học hậu môn (xét nghiệm Pap hậu môn) để phát hiện các tế bào bất thường. Tuy nhiên, xét nghiệm này không được thực hiện phổ biến và hiện chưa có hướng dẫn chính thức về tần suất và độ tuổi cần xét nghiệm.
Hiện tại, chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu cho người nhiễm HPV. Tuy nhiên, cơ thể thường có khả năng tự loại bỏ virus nhờ vào hệ miễn dịch. Đối với các tuýp HPV có nguy cơ cao như HPV type 16 và 18, bác sĩ có thể can thiệp để điều trị những thay đổi bất thường ở tế bào cổ tử cung, các tế bào ung thư, hoặc các mụn cóc liên quan đến virus.
Theo các chuyên gia y tế, không phải tất cả những người nhiễm HPV type 16 hoặc 18 đều phát triển thành ung thư cổ tử cung, sùi mào gà hay ung thư âm hộ. Các yếu tố như sức khỏe hệ miễn dịch, tuổi tác, và lối sống cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng nguy cơ mắc bệnh.
Do đó, để phòng ngừa nhiễm virus HPV type 16 và 18, việc tiêm phòng vắc xin HPV là rất quan trọng. Đồng thời, mỗi người cũng cần duy trì lối sống lành mạnh, ăn uống hợp lý, giữ gìn vệ sinh cá nhân và bộ phận sinh dục, duy trì đời sống tình dục an toàn và kiểm tra sức khỏe định kỳ là những biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và toàn xã hội.
Theo CDC Hoa Kỳ, nhờ tiêm vắc xin HPV, tỷ lệ mắc các bệnh ung thư và mụn cóc sinh dục do HPV đã giảm đến 88% bé gái và 81% ở phụ nữ trưởng thành gây ra. Riêng nam giới, hiện vẫn chưa có các biện pháp tầm soát HPV type 16, vì vậy việc tiêm vắc xin là rất cần thiết để phòng ngừa.
Vắc xin Gardasil (Mỹ) và Gardasil 9 (Mỹ) đều có khả năng phòng ngừa hiệu quả các bệnh ung thư liên quan đến HPV. Đặc biệt, vắc xin Gardasil 9 là loại vắc xin thế hệ mới được chỉ định tiêm cho nam và nữ giới từ 9-45 tuổi, trong đó 9-14 là độ “tuổi vàng” được khuyến cáo nên tiêm vắc xin để giúp vắc xin phát huy hiệu quả bảo vệ tối ưu nhất.
Tại Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC, Khách hàng có thể dễ dàng nhận được sự tư vấn tiêm chủng, đăng ký tiêm HPV tại TPHCM, đăng ký gói vắc xin hoặc tham gia các chương trình ưu đãi thông qua các cách sau:
HPV type 16 thường không gây triệu chứng rõ ràng trong giai đoạn đầu, vì vậy việc kiểm tra định kỳ giúp phát hiện sớm sự hiện diện của virus trước khi bệnh phát triển đến giai đoạn nghiêm trọng. Chính vì vậy, phụ nữ ở độ tuổi sinh sản nên thực hiện khám sức khỏe định kỳ và tầm soát HPV thường xuyên để phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe, giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư liên quan đến HPV.
Quan hệ tình dục không an toàn có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, trước mắt có thể dẫn đến sùi mào gà, và theo thời gian, nguy cơ có thể tiến triển thành ung thư ở các bộ phận sinh dục, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng.
Không chỉ vậy, người nhiễm HPV còn có thể lây cho người khác. Thực hiện quan hệ tình dục an toàn là cách hiệu quả để bảo vệ bản thân và ngăn ngừa rủi ro cho cộng đồng.
Thường xuyên tắm rửa và vệ sinh bộ phận sinh dục là một trong những biện pháp quan trọng để giảm nguy cơ mắc các bệnh lây qua đường tình dục. Sau khi quan hệ tình dục, bạn nên đi tiểu và làm sạch cơ quan sinh dục bằng xà phòng và nước. Những bước này giúp loại bỏ virus còn lại trên bề mặt da, giảm khả năng lây nhiễm vào cơ thể.
Nghiên cứu cho thấy rằng thói quen sinh hoạt không lành mạnh có thể tăng nguy cơ phát triển ung thư. Để giảm nguy cơ nhiễm HPV type 16 và các bệnh ung thư liên quan, mỗi cá nhân nên thực hiện lối sống lành mạnh, bao gồm: không hút thuốc lá, duy trì chế độ ăn uống cân bằng và đầy đủ dinh dưỡng, giữ cân nặng hợp lý, hạn chế tiếp xúc với tia UV từ ánh nắng mặt trời, và nắm rõ tiền sử bệnh ung thư trong gia đình.
Đa số các tuýp HPV, trong đó có HPV type 16 có thể tự đào thải hoàn toàn sau 1 đến 2 năm mà không gây ra bất kỳ vấn đề sức khỏe nào. Tuy nhiên, ở những người có hệ miễn dịch yếu, bệnh nhân HIV/AIDS, người đã sinh nhiều con hoặc những người có nhiều bạn tình, quá trình nhiễm HPV có thể kéo dài. Trong những trường hợp này, HPV có thể âm thầm tiến triển và gây ra các bệnh như sùi mào gà hoặc các loại ung thư như ung thư dương vật, ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, và ung thư hậu môn.
HPV type 16 lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục và tiếp xúc da kề da. Hiện chưa có nghiên cứu nào khẳng định chắc chắn rằng nụ hôn là một con đường lây truyền virus u nhú ở người (HPV). Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy việc hôn sâu có thể tăng khả năng lây nhiễm HPV.
Dù hôn không được xem là con đường lây truyền HPV phổ biến, nhưng các nhà khoa học cần tiến hành thêm nhiều nghiên cứu trước khi có thể loại trừ hoàn toàn khả năng lây nhiễm qua đường này.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào về vấn đề HPV type 16, quý Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với VNVC thông qua hotline 028.7102.6595 hoặc inbox qua fanpage facebook VNVC – Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em & Người lớn hoặc đến ngay các trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc để được nhân viên chăm sóc Khách hàng hướng dẫn chi tiết, được bác sĩ thăm khám sàng lọc, tư vấn sức khỏe và chỉ định tiêm ngừa phù hợp. Tra cứu trung tâm tiêm chủng VNVC gần nhất tại đây.