HPV là virus gây u nhú ở người, lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục và nhiều con đường khác, gây ra nhiều bệnh lý khác nhau, từ những vấn đề sức khỏe lành tính như sùi mào gà đến các căn bệnh ác tính, biến chứng nghiêm trọng như ung thư. Tuy nhiên, không phải tất cả các type HPV đều gây ra tác hại như nhau. Vậy, các type HPV gồm những chủng loại nào và chúng có thể gây ra những bệnh gì?
Bài viết được tư vấn bởi BS Nguyễn Văn Mác Toàn, Quản lý Y khoa Vùng 1 – miền Trung – Tây Nguyên, Hệ thống tiêm chủng VNVC.
BS Nguyễn Văn Mác Toàn, Quản lý Y khoa Vùng 1 – miền Trung – Tây Nguyên, Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết: “Theo thống kê, các type HPV nguy cơ cao gây ra khoảng 5% tổng số ca ung thư trên toàn thế giới và khoảng 37.300 ca ung thư tại Hoa Kỳ mỗi năm. Trong đó, ung thư cổ tử cung là phổ biến nhất với ước tính HPV gây ra 604.000 ca mới và 342.000 ca tử vong vào năm 2020. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, gần 40% phụ nữ trong độ tuổi từ 15 – 59 có thể bị nhiễm ít nhất một loại HPV mỗi năm (1). 80% người lớn chưa tiêm vắc xin sẽ mắc HPV vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Tiêm ngừa vắc xin HPV là phương pháp phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm, mắc bệnh biến chứng hiệu quả nhất, khuyến cáo tiêm càng sớm càng tốt cho trẻ từ 9 tuổi và người lớn đến 45 tuổi.”
HPV, viết tắt của Human Papillomavirus là một nhóm các virus gây u nhú ở người. HPV có khoảng 200 chủng khác nhau, trong số đó, khoảng 40 chủng có thể lây nhiễm qua đường tình dục và gây ra các bệnh lý ở vùng sinh dục như: âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, dương vật, hậu môn… Đặc biệt, có khoảng 14 chủng HPV nguy cơ cao, được xác định là nguyên nhân chính gây ra ung thư cổ tử cung ở nữ giới.
Khoảng 99,7% các trường hợp ung thư cổ tử cung là do nhiễm HPV (2). Ngoài ra, HPV còn là tác nhân chính gây ra 90% trường hợp ung thư hậu môn, 78% trường hợp ung thư âm đạo, 25% trường hợp ung thư âm độ, 50% trường hợp ung thư dương vật và 60% trường hợp ung thư vòm họng. (3)
Theo ước tính của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, mỗi năm có hơn 42 triệu người bị nhiễm HPV, trong đó có khoảng 13 triệu ca nhiễm mới. Mỗi năm có hơn 21.000 phụ nữ và khoảng 15.000 nam giới bị ảnh hưởng bởi bệnh ung thư do HPV gây ra, hơn 4.000 phụ nữ tử vong vì ung thư cổ tử cung và hơn 11.500 nam giới được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vòm họng liên quan đến HPV. Trước khi vắc xin HPV ra đời, mỗi năm có khoảng 340.000 – 360.000 phụ nữ và nam giới đến gặp chuyên gia chăm sóc sức khỏe để điều trị mụn cóc sinh dục do HPV gây ra. (4)
Các type HPV nguy cơ thấp thường không gây ra ung thư, nhưng chúng vẫn có thể dẫn đến một số vấn đề sức khỏe khác, chủ yếu là các mụn cóc sinh dục và mụn cóc trên da. Mặc dù không nguy hiểm đến tính mạng như ung thư nhưng các mụn cóc sinh dục có thể gây ra cảm giác khó chịu, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và tâm lý của người bệnh. Một số type HPV nguy cơ thấp phổ biến bao gồm: HPV type 6, 11, 42, 43 và 44.
Tìm hiểu thêm: HPV tuýp 6 và 11 gây bệnh gì? Cách chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa.
Các chủng HPV nguy cơ cao có thể dẫn đến sự phát triển của các tế bào bất thường và gây ung thư. Những chủng này có liên quan đến ung thư cổ tử cung, ung thư hầu họng, ung thư thanh quản, ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, ung thư dương vật, ung thư hậu môn. Tất cả các loại ung thư này đều liên quan đến nhiễm trùng HPV lây truyền qua đường tình dục vào mô biểu mô tầng.
Các type HPV nguy cơ cao phổ biến bao gồm: 16, 18, 31, 33, 34, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66, 68 và 70. Trong đó, HPV type 16 và 18 chiếm 70% trong số tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung, HPV 16 gây ra gần 90% các trường hợp ung thư vòm họng dương tính với HPV, 60 – 90% các loại ung thư hầu họng, âm đạo, âm hộ, dương vật, hậu môn cũng có liên quan đến HPV type 16 và 18. (5)
Không phải tất cả các type HPV đều nguy hiểm. HPV gồm hơn 200 loại, nhưng chỉ có một số loại nhất định gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Đối với các type HPV nguy cơ thấp thường không gây hại, chỉ gây ra các triệu chứng nhẹ như mụn cóc sinh dục hoặc không gây ra bất kỳ triệu chứng nào.
Theo thống kê, có tới 90% các ca nhiễm HPV mới sẽ tự khỏi hoặc không phát hiện được trong vòng 2 năm và hầu hết các ca nhiễm này sẽ tự khỏi trong 6 tháng đầu tiên (6). Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, khoảng 45 – 90% trường hợp mắc mụn cóc sinh dục do HPV sẽ tự khỏi sau một thời gian. (7)
Tuy nhiên, đối với các type HPV nguy cơ cao, có thể tồn tại lâu dài trong cơ thể, gây nhiễm trùng dai dẳng và dẫn tới những tổn thương sơ khởi và lâu dần biến thành ung thư. Các type HPV nguy cơ cao như HPV 16 và HPV 18 là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư vòm họng và một số loại ung thư sinh dục khác. Nhiễm trùng lâu dài các loại HPV có nguy cơ cao, có khả năng gây ung thư, ước tính chỉ xảy ra ở 1% số người bị nhiễm .
HPV là một nhóm virus lớn, gồm nhiều chủng (type) khác nhau. Mỗi chủng HPV có thể gây ra các bệnh lý khác nhau, từ những bệnh lành tính đến các loại ung thư nguy hiểm. Dưới đây là một số loại HPV phổ biến và các bệnh lý liên quan:
Loại HPV | Bệnh lý gây ra | Triệu chứng phổ biến |
1, 2, 4, 63 | Mụn cóc ở lòng bàn chân | Mụn cóc ở lòng bàn chân là những khối u cứng, sần sùi thường xuất hiện ở gót chân hoặc mu bàn chân. Những mụn cóc này có thể gây đau, khó chịu khi đi lại. |
2, 7, 22 | Mụn cóc thông thường | Thường xuất hiện ở tay và chân nhưng cũng có thể xuất hiện ở những vùng khác như khuỷu tay hoặc đầu gối. Mụn cóc thông thường xuất hiện dưới dạng các cục u thô, nổi lên và thường xuất hiện ở bàn tay và ngón tay. |
3, 10, 28 | Mụn có phẳng | Thường gặp nhất ở cánh tay, mặt hoặc trán. Mụn có màu nâu đỏ hoặc màu thịt, hơi nhô lên, bề mặt phẳng, sần có ranh giới rõ ràng và đường kính từ 2 – 5 mm. |
6, 11, 42, 44 | Mụn cóc sinh dục | Thường xuất hiện dưới dạng tổn thương phẳng, các cục u nhỏ giống như súp lơ hoặc các phần lồi nhỏ giống như thân cây. Ở nữ giới, mụn cóc sinh dục thường xuất hiện ở âm hộ nhưng cũng có thể xuất hiện gần hậu môn, trên cổ tử cung hoặc trong âm đạo. Ở nam giới, mụn cóc sinh dục thường xuất hiện trên dương vật và bìu hoặc xung quanh hậu môn. |
16, 18, 31, 53, 58 | Loạn sản hậu môn (tổn thương) | Là tình trạng tiền ung thư xảy ra khi lớp niêm mạc của ống hậu môn trải qua những thay đổi bất thường. Nó có thể được phân loại thành tổn thương biểu mô vảy cấp độ thấp (LSIL) và tổn thương biểu mô vảy cấp độ cao (HSIL). Hầu hết các trường hợp không liên quan đến các triệu chứng, nhưng người bệnh có thể nhận thấy các khối u trong và xung quanh hậu môn. |
|
Ung thư sinh dục | Tùy vào từng loại ung thư sẽ có triệu chứng khác nhau, cụ thể:
|
2, 3, 10, 5, 8, 9, 12, 14, 15, 17, 19 , 20, 21, 22, 23, 24, 25, 36, 37, 38, 47, 50 | Chứng loạn sản biểu bì mụn cóc | Đặc điểm chẩn đoán lâm sàng là phát ban kéo dài các mảng giống lang ben, các sẩn phẳng giống mụn cóc, một hoặc nhiều tổn thương giống sừng trên da và phát triển thành ung thư biểu mô da.
Người bệnh sẽ có các mảng dát phẳng, hơi có vảy, màu đỏ nâu trên mặt, cổ và cơ thể, đặc biệt quanh vùng dương vật của nam giới, hoặc các tổn thương u nhú giống như mụn cóc, các tổn thương giống như bệnh sừng hóa tiết bã nhờn và các sẩn phẳng màu đỏ hồng trên tay, tứ chi trên, dưới và mặt. |
13, 32 | Tăng sản biểu mô khu trú (miệng) | Là một tình trạng tân sinh lành tính không triệu chứng, đặc trưng bởi nhiều sẩn màu trắng đến hồng xuất hiện lan tỏa trong khoang miệng. Có thể biểu hiện với hình thái bề mặt hơi nhợt nhạt, nhẵn hoặc nhám. |
6, 7, 11, 16, 32 | U nhú miệng | U nhú lành tính có nguồn gốc từ biểu mô, với các phần nhô ra giống súp lơ mọc ra từ bề mặt niêm mạc. Nó có thể có màu trắng hoặc màu bình thường và có thể có cuống hoặc không cuống. Kích thước trung bình từ 1 – 5 cm. Vị trí phổ biến nhất là vùng vòm miệng – lưỡi gà, tiếp theo là lưỡi và môi. Thời gian kéo dài từ vài tuần đến 10 năm. |
16 | Ung thư vòm họng | Xuất hiện các triệu chứng như sưng đỏ vùng miệng, xuất hiện khối u có thể nhìn hoặc sờ thấy qua da cổ, sưng phù amidan và nuốt vướng. |
60 | U nang sùi mào gà | U nang dạng sùi là tình trạng da giống với u nang biểu bì ngoại trừ lớp lót biểu hiện bệnh u nhú. |
6, 11 | U nhú thanh quản | Một triệu chứng phổ biến của bệnh u nhú thanh quản là thay đổi chất lượng giọng nói. Cụ thể hơn, người bệnh sẽ có dấu hiệu là giọng khàn. Do hẹp các phần thanh quản hoặc khí quản của đường thở, có thể xuất hiện tình trạng khó thở, ho mãn tính và thở rít. Khi bệnh tiến triển, có thể chẩn đoán được sự xuất hiện của các triệu chứng thứ phát như khó nuốt, viêm phổi, hội chứng suy hô hấp cấp tính, chậm phát triển và nhiễm trùng đường hô hấp trên tái phát. |
Các tuýp HPV thường lây truyền chủ yếu qua các đường sau:
Các phương pháp thường được sử dụng để chẩn đoán nhiễm các type HPV bao gồm:
Việc phòng ngừa các type HPV là rất quan trọng vì đây là tác nhân chính gây ra nhiều bệnh lý, bao gồm mụn cóc sinh dục, ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư dương vật và ung thư hầu họng. Dưới đây là một số biện pháp phòng ngừa HPV hiệu quả:
Tiêm vắc xin HPV là biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất các bệnh lý ung thư nguy hiểm như ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, ung thư âm hộ/âm đạo, u nhú sinh dục… do HPV gây ra. Hiện nay, có 2 loại vắc xin HPV được cấp phép lưu hành tại Việt Nam là vắc xin Gardasil và vắc xin Gardasil 9.
Vắc xin Gardasil (Mỹ) phòng bệnh ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo, các tổn thương tiền ung thư và loạn sản, mụn cóc sinh dục, các bệnh lý do nhiễm HPV, được chỉ định dành cho trẻ em gái và phụ nữ trong độ tuổi từ 9 – 26 tuổi.
Vắc xin Gardasil 9 giúp bảo vệ khỏi 9 type HPV phổ biến là 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58 gây bệnh ung thư cổ tử cung, ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, mụn cóc sinh dục, các tổn thương tiền ung thư hoặc loạn sản… với hiệu quả bảo vệ lên đến trên 90%. Vắc xin được chỉ định tiêm cho cả nam giới và nữ giới, từ 9 – 45 tuổi.
Quan hệ tình dục không an toàn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lây lan của HPV. Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm HPV, cả nam và nữ nên tuân thủ các biện pháp bảo vệ như sử dụng bao cao su, màng chắn nha khoa… trong suốt quá trình quan hệ tình dục. Bên cạnh đó, duy trì một mối quan hệ tình dục chung thủy một vợ – một chồng, hạn chế có nhiều bạn tình, nhất là những bạn tình mà bản thân không biết rõ về tình trạng sức khỏe của họ cũng là cách hiệu quả để giảm khả năng tiếp xúc với virus, từ đó bảo vệ sức khỏe sinh sản và phòng ngừa các bệnh lây qua đường tình dục.
Để phòng ngừa ung thư cổ tử cung, nữ giới nên thực hiện khám sàng lọc định kỳ. Việc này giúp phát hiện sớm những thay đổi bất thường trong tế bào cổ tử cung, chẳng hạn như dị sản hay loạn sản, trước khi chúng phát triển thành ung thư. Xét nghiệm Pap (Pap smear) và xét nghiệm HPV là hai phương pháp sàng lọc phổ biến và được khuyến nghị cho phụ nữ, giúp phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm từ giai đoạn đầu, khi bệnh còn có thể điều trị được.
Các chuyên gia y tế khuyến cáo phụ nữ nên bắt đầu khám sàng lọc ngay từ tuổi 21 và duy trì việc kiểm tra hàng năm hoặc theo chỉ định của bác sĩ, tùy thuộc vào độ tuổi và tình trạng sức khỏe cá nhân.
Một hệ miễn dịch khỏe mạnh có thể giúp cơ thể đối phó tốt hơn với các nhiễm trùng, bao gồm HPV. Để duy trì sức khỏe và tăng cường miễn dịch, nên xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý, bổ sung đầy đủ các vitamin, khoáng chất, đặc biệt là vitamin C, vitamin E và các dưỡng chất chống oxy hóa có trong trái cây, rau củ và ngũ cốc. Đồng thời, tập thể dục thường xuyên để tăng cường sức khỏe tổng thể và hệ miễn dịch, giúp cơ thể chống lại virus.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Tóm lại, HPV có rất nhiều chủng loại, mỗi chủng gây ra những bệnh khác nhau, từ các bệnh lành tính như sùi mào gà đến các bệnh nguy hiểm như ung thư cổ tử cung. Để bảo vệ sức khỏe bản thân và ngăn ngừa các type HPV nguy cơ cao gây ung thư, nam và nữ giới từ 9 – 45 tuổi nên chủ động tiêm phòng HPV, thực hành quan hệ tình dục an toàn. Đồng thời, nữ giới nên tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ để sớm phát hiện ra những dấu hiệu bất thường và có cách điều trị phù hợp.