//= SITE_URL ?>
Ung thư tế bào thận RCC là loại ung thư thận thường gặp nhất. Những triệu chứng bệnh gồm tiểu ra máu, đau mạn sườn, sốt không rõ nguyên nhân, xuất hiện khối u tại thắt lưng… Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, triệu chứng thường không rõ ràng, rất khó chẩn đoán chính xác.
Ung thư tế bào thận RCC (Renal cell carcinoma) là một dạng ung thư niêm mạc ống lượn gần. Đây là loại ung thư đứng thứ 3 trong số ung thư hệ tiết niệu, chiếm 2% – 3% trong tổng số ung thư ở người trưởng thành, đặc biệt phổ biến ở người cao tuổi. (1)
Khi khối u được giới hạn bởi nhu mô thận, tỷ lệ sống khoảng 5 năm là 60% – 70%. Tuy nhiên, tỷ lệ này sẽ giảm xuống khi tế bào ung thư đã di căn lan rộng. Tế bào ung thư này tương đối kháng xạ trị và hóa trị dù một số trường hợp có dấu hiệu đáp đứng điều trị.
Theo thống kê của GLOBOCAN vào năm 2012, số bệnh nhân mới mắc ung thư thận toàn thế giới là khoảng 340.000 người. Nguyên nhân gây ung thư đến hiện nay vẫn chưa được xác định chính xác. Tuy nhiên, một số nguy cơ dưới đây có thể làm gia tăng khả năng mắc bệnh:
Nếu phát hiện sớm, tỷ lệ sống sót tương đối cao. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm lên đến 81% với các trường hợp mắc bệnh trong giai đoạn 1.
Nguyên nhân và cơ chế sinh RCC cho đến hiện nay vẫn được xác định rõ. Một số yếu tố được xem là có tác động đến phát triển của tế bào ung thư thận như:
Giai đoạn sẽ cho biết mức độ ung thư tế bào thận của người bệnh. Từ đó, bác sĩ sẽ tìm ra phương pháp điều trị phù hợp. Ung thư tế bào thận RCC được chia theo giai đoạn từ I tới IV. Từng giai đoạn được xác định như sau:
Giai đoạn I | Đường kính khối u là 7cm hay nhỏ hơn và được giới hạn ở thận. |
Giai đoạn II | Đường kính khối u lớn hơn 7cm, vẫn giới hạn tại thận. |
Giai đoạn III | Khối u có kích thước bất kỳ. Khối u có khả năng có hay không có di căn đến những mô mỡ quanh thận, có hay không có lan truyền vào tĩnh mạch chủ dưới để tới tim. |
Giai đoạn IV | Các khối u với các đặc điểm sau:
|
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ học nhằm loại bỏ khối u ra khỏi cơ thể của bệnh nhân, gồm các phân nhóm(2):
Nếu như chỉ còn 1 thận, cơ thể con người vẫn có khả năng sống. Tuy nhiên, khi cả 2 thận bị cắt bỏ hay không hoạt động, người bệnh sẽ cần chạy thận nhằm đảm bảo chức năng lọc máu cho cơ thể. Một số trường hợp cần phải ghép thận.
Xạ trị là phương pháp điều trị dùng tia X năng lượng cao nhằm tiêu diệt tế bào ung thư hay ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Khi xạ trị, bệnh nhân sẽ được dùng thuốc để giảm triệu chứng, tăng chất lượng cuộc sống. Quá trình xạ trị ung thư tế bào thận gồm:
Hóa trị là phương pháp điều trị dùng thuốc để ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Phương pháp này có thể giết tế bào ung thư hay kìm hãm sự phân chia tế bào ung thư. Khi thuốc được vào cơ thể bằng đường uống hay tiêm mạch hay tiêm bắp, thuốc sẽ di chuyển vào máu và tới vị trí của tế bào ung thư.
Tuy nhiên, ung thư thận là một bệnh lý ác tính kháng thuốc mạnh. Vì thế, RCC chưa có hóa chất đặc hiệu. Các bác sĩ chỉ sử dụng những hóa chất thông thường như Vinblastine. Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng hóa chất này tương đối thấp (15% – 20%). Một số hóa chất khác như Zalcitabine, Fluorouracil cũng được dùng để điều trị ung thư tế bào thận nhưng hiệu quả không cao.
Đây là phương pháp điều trị dùng thuốc để kích thích hệ thống miễn dịch của người bệnh, giúp nhận biết tế bào ung thư và chiến đấu với tế bào ung thư. Những chất miễn dịch sẽ được hình thành tự nhiên trong cơ thể hay sản xuất nhân tạo từ những phòng thí nghiệm. Đa phần bác sĩ hiện nay đang dùng các Cytokin như Glutathione, Interleukin, Interferon… để điều trị cho bệnh nhân RCC. Tuy hiệu quả điều trị tương đối tốt nhưng chi phí thuốc vẫn còn rất cao.
Đây là phương pháp điều trị sử dụng thuốc hay chất nhân tạo để tấn công vào tế bào ung thư mà không khiến tế bào bình thường bị tổn hại. Để điều trị RCC, bác sĩ sẽ dùng tác nhân kháng tạo mạch máu (antiangiogenic agents). Tác nhân này sẽ khiến tế bào ung thư không thể hình thành mạch máu, nhờ đó không thể lấy dinh dưỡng từ máu. Tế bào ung thư buộc phải ngừng phát triển hoặc chết.
Trung tâm Tiết niệu Thận học, Khoa Nam học – Tiết niệu của Hệ thống BVĐK Tâm Anh quy tụ đội ngũ các chuyên gia đầu ngành, Nội khoa và Ngoại khoa, giỏi chuyên môn, tận tâm.
Nhà giáo nhân dân GS.TS.BS Trần Quán Anh, Thầy thuốc ưu tú PGS.TS.BS Vũ Lê Chuyên là những cây đại thụ trong ngành Tiết niệu Thận học Việt Nam. Cùng với các tên tuổi Thầy thuốc ưu tú TS.BS Nguyễn Thế Trường Thầy thuốc ưu tú BS.CKII Tạ Phương Dung, TS.BS Nguyễn Hoàng Đức, TS.BS Từ Thành Trí Dũng, ThS.BS.CKI Nguyễn Đức Nhuận, BS.CKII Nguyễn Lê Tuyên, ThS.BS Nguyễn Tân Cương, ThS.BS Tạ Ngọc Thạch, BS.CKI Phan Trường Nam…
Các chuyên gia, bác sĩ của Trung tâm luôn tự tin làm chủ những kỹ thuật mới nhất, phát hiện sớm và điều trị hiệu quả các bệnh lý về thận và đường tiết niệu, giúp người bệnh rút ngắn thời gian nằm viện, hạn chế nguy cơ tái phát, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với hệ thống máy móc, trang thiết bị hiện đại hàng đầu trong nước và khu vực; Phòng mổ đạt tiêu chuẩn quốc tế; Cùng với khu nội trú và dịch vụ cao cấp 5 sao… Trung tâm Tiết niệu Thận học nổi bật với các dịch vụ thăm khám, tầm soát và điều trị tất cả các bệnh lý đường tiết niệu.
Từ các thường gặp cho đến các cuộc đại phẫu thuật kỹ thuật cao. Có thể kể đến phẫu thuật nội soi sỏi thận, ghép thận, cắt bướu bảo tồn nhu mô thận; cắt thận tận gốc; cắt tuyến tiền liệt tận gốc; cắt toàn bộ bàng quang tạo hình bàng quang bằng ruột non; cắt tuyến thượng thận; tạo hình các dị tật đường tiết niệu… Chẩn đoán – điều trị nội khoa và ngoại khoa tất cả các bệnh lý Nam khoa.
Để đặt lịch khám và phẫu thuật tuyến tiền liệt với các chuyên gia đầu ngành tại Trung tâm Tiết niệu Thận học, Khoa Nam học – Tiết niệu Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, quý khách có thể đặt hẹn trực tuyến qua các cách sau đây:
Ung thư tế bào thận RCC không những khó chẩn đoán, điều trị mà còn gây tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Hiện nay, bệnh nhân ngày càng có nhiều phương pháp và kỹ thuật mới để chẩn đoán sớm ung thư nói chúng và ung thư tế bào thận nói riêng. Tuy nhiên, phần lớn hiệu quả của quá trình điều trị ung thư còn phụ thuộc vào thể trạng cơ thể của bệnh nhân, bệnh lý nền.