Vân, 13 tuổi, không có dấu hiệu bệnh tim mạch, đi khám tổng quát thì phát hiện lỗ thông trong tim gây giãn buồng tim phải, cần can thiệp để ngăn tăng áp phổi, suy tim.
Vân có thể trạng gầy từ nhỏ. Chị Hải, mẹ Vân kể từ lúc sinh ra em đã chậm tăng cân, đến tuổi ăn dặm thì biếng ăn kéo dài nên có tháng cân nặng chững lại. Nay Vân 13 tuổi, ăn uống kém, BMI chưa tới 18 (thiếu cân độ I). Gia đình đưa em đi khám tổng quát tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM.
Ngày 23/09, BS.CKI Phạm Thục Minh Thủy, khoa Tim bẩm sinh, Trung tâm Tim mạch, cho biết Vân tuy gầy nhưng thể trạng khỏe mạnh, không có bệnh nền, cũng không biểu hiện triệu chứng bệnh tim mạch rõ ràng. Nhưng kết quả siêu âm tim qua thành ngực phát hiện em có lỗ thông liên nhĩ 9 mm, đã có biến chứng giãn buồng tim phải.
Sau khi siêu âm tim qua thực quản, kích thước lỗ thông được xác định 16 mm (mức độ trung bình). Thông liên nhĩ là bệnh lý tim bẩm sinh do tồn tại một lỗ thủng giữa hai buồng tâm nhĩ (ngăn trên của tim). Những lỗ thông nhỏ thường sẽ tự đóng trong vài tuần hoặc vài tháng sau sinh. Trường hợp của Vân lỗ thông không tự đóng mà theo em đến lớn, gây biến chứng giãn buồng tim phải.
Bác sĩ Thủy lý giải, nhiều trẻ có khiếm khuyết ở vách ngăn nhĩ từ trong bào thai nhưng vẫn sinh hoạt bình thường, phát triển khỏe mạnh. Do đó, bệnh thường được chẩn đoán một cách tình cờ khi trẻ lớn hoặc khi người trưởng thành đi kiểm tra sức khỏe. Một số trường hợp, lỗ thông liên nhĩ lớn và bắt đầu ảnh hưởng lên tim có thể biểu hiện triệu chứng nặng ngực, nhói ngực, khó thở, thở nhanh, mệt, viêm phổi tái phát nhiều lần…
Nếu Vân không được phát hiện và điều trị kịp thời, lỗ thông sẽ tiếp tục tồn tại. Điều này làm cho lưu lượng máu qua tim phải và lên phổi gia tăng, khiến tim và phổi phải làm việc nhiều hơn. Về lâu dài, dẫn tới nhiều biến chứng nguy hiểm như giãn buồng tim, rối loạn nhịp tim, suy tim, tăng áp phổi.
BS.CKI Vũ Năng Phúc, Trưởng khoa Tim bẩm sinh, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM chia sẻ, đối với những lỗ thông liên nhĩ có kích thước từ trung bình đến lớn và đã có chỉ định điều trị, việc bít lỗ thông là cần thiết để ngăn ngừa biến chứng. Có hai phương pháp điều trị phổ biến là thông tim bít lỗ thông liên nhĩ bằng dụng cụ và phẫu thuật tim hở để vá lỗ thông.
Không phải trường hợp nào cũng áp dụng được phương pháp thông tim. Bác sĩ Phúc giải thích: “Thông tim bít lỗ liên nhĩ có thể thực hiện khi kích thước lỗ thông vừa phải (< 38-40 mm) và có đủ vành mô (rim) để neo giữ thiết bị, với phần lớn các rim ≥ 5 mm, ngoại trừ rim động mạch chủ có thể thiếu hoặc mỏng”. Vân đáp ứng đầy đủ các tiêu chí kỹ thuật nên được chỉ định phương pháp ít xâm lấn này.
Bác sĩ Phúc cho biết, việc chọn đúng kích thước dù là yếu tố quyết định thành công của ca can thiệp. Bác sĩ sẽ kết hợp nhiều phương pháp nhằm xác định kích thước chính xác của lỗ thông, bao gồm siêu âm tim qua thành ngực, siêu âm tim qua thực quản, một vài trường hợp còn đo trực tiếp bằng bóng trong thông tim. Căn cứ vào đó, bác sĩ sẽ lựa chọn dụng cụ phù hợp.
Bệnh nhân được gây tê tại chỗ ở vùng bẹn, tỉnh táo trong suốt quá trình làm thủ thuật. Bác sĩ luồn dây dẫn qua tĩnh mạch đùi để tạo đường đi tới tim, tiếp đến đo áp lực động mạch phổi để đảm bảo bệnh nhân không bị tăng áp phổi.
Êkíp sử dụng chiếc dù làm từ hợp kim nitinol, có cấu trúc hai đĩa tự bung dạng lưới, để đóng kín lỗ thông. Trước khi kết thúc can thiệp, bệnh nhân được siêu âm tim qua thành ngực một lần nữa để chắc chắn dù bít đã nằm đúng vị trí, bám chắc vào vách liên nhĩ, không chèn ép các cơ quan lân cận và không gây hở van tim.
Vân hồi phục nhanh, ăn uống và sinh hoạt bình thường chỉ sau can thiệp vài giờ, xuất viện ngay hôm sau. Bác sĩ căn dặn em uống thuốc để phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm trùng cũng như ngăn cục máu đông trong 6 tháng, tuân thủ tái khám định kỳ. Lần khám đầu tiên sau thủ thuật, sức khỏe Vân ổn định, kiểm tra dụng cụ bít lỗ thông liên nhĩ tốt.
Theo bác sĩ Phúc, ở một số ít trường hợp, lỗ thông liên nhĩ có thể tự đóng, do vậy không nên can thiệp ở trẻ dưới 1 tuổi nếu trẻ không suy tim, không tăng áp động mạch phổi nhiều. Lý tưởng nhất là can thiệp khi trẻ đủ lớn, lúc 3-4 tuổi. Không nên để muộn vì lỗ thông lớn sẽ gây ảnh hưởng đến cấu trúc, chức năng tim. Ở người trưởng thành, nếu phát hiện ra bệnh, vẫn nên can thiệp đóng lỗ thông khi áp lực và sức cản động mạch phổi chưa quá cao.
Bác sĩ Thủy bổ sung, các nghiên cứu cho thấy người trẻ trong độ tuổi 20-30 đã thực hiện đóng lỗ thông liên nhĩ có tuổi thọ tương đương người bình thường. Những người đã can thiệp bít dù cũng có tiên lượng sống tốt hơn rõ rệt so với nhóm bệnh nhân không được điều trị.
*Tên bệnh nhân đã được thay đổi
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH