Anh Quang, 58 tuổi, động mạch chậu giãn to gấp năm bình thường, được can thiệp đặt stent graft để ngăn biến chứng vỡ túi phình.
Anh Quang có cơ địa béo phì (BMI 34,7), bệnh nền tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường nhiều năm. Một tháng nay anh thấy người nặng nề, khó chịu vùng bụng, đến bệnh viện tỉnh khám thì được chẩn đoán phình động mạch chủ – chậu, chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM điều trị.
Ngày 15/8, TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Lồng ngực – Mạch máu cho biết, bệnh nhân không có triệu chứng đặc trưng của bệnh lý phình động mạch chậu như đau lưng, đau bụng dưới, đau bẹn… Đoạn phình mạch chủ của anh Quang có kích thước 45 mm, chưa có chỉ định can thiệp. Tuy nhiên, động mạch chậu hai bên phình gấp 5 lần bình thường, kích thước lớn nhất lên đến 40 mm trong khi bình thường chỉ 8-9 mm. “Nguy cơ khối phình này vỡ là rất cao, lúc đó cơ hội cứu sống chưa tới 10%”, bác sĩ Dũng đánh giá.
Động mạch chủ bụng chia thành hai nhánh là động mạch chậu phải và trái, có nhiệm vụ cung cấp máu cho chi dưới và các cơ quan trong vùng chậu đùi. Phình động mạch chủ – chậu là tình trạng giãn bất thường khu trú của thành động mạch, lớn hơn đường kính bình thường của mạch máu ít nhất 50%. Bệnh lý này xảy ra khi cấu trúc thành mạch bị suy yếu, làm mất khả năng chịu áp lực dòng máu, dẫn đến phình giãn và tạo thành một túi phình.
Vùng thành mạch bị phình thường mỏng và yếu hơn so với thành mạch bình thường. Điều này làm tăng nguy cơ vỡ túi phình hoặc bóc tách mạch máu. Đây là các biến chứng cực kỳ nguy hiểm có nguy cơ gây xuất huyết ồ ạt hoặc tắc mạch, đe dọa tính mạng người bệnh.
Theo bác sĩ Dũng, có hai phương pháp chính điều trị phình động mạch, bao gồm phẫu thuật mổ mở cắt bỏ túi phình hoặc can thiệp nội mạch đặt stent phủ, mục tiêu chính để ngăn nguy cơ vỡ. Với những bệnh nhân béo phì, có nhiều bệnh nền như anh Quang, việc phẫu thuật gặp nhiều khó khăn do lớp mỡ dày, phải rạch da đoạn dài, thời gian mổ lâu hơn và mất máu nhiều hơn.
Việc đặt nội khí quản cũng dễ thất bại so với bình thường, làm tăng nguy cơ suy hô hấp, lâu hồi phục sau mổ. Để giảm biến chứng, bác sĩ chọn phương pháp can thiệp đặt stent có màng bọc bên ngoài (covered stent). Đây là loại stent thế hệ mới có tác dụng dẫn máu đi trong lòng stent, không cho máu thoát ra đi vào túi phình.
Ca thủ thuật diễn ra thuận lợi do mạch máu không bị gập góc, xoắn vặn, không vôi hóa hay có huyết khối. Ê kíp thuận lợi đưa dụng cụ vào thao tác, đặt được 1 stent graft hình chữ Y vào hai nhánh động mạch chậu trái – phải, giúp che phủ hoàn toàn khối phình, ngăn chặn nguy cơ tiến triển và vỡ phình đồng thời tái tạo dòng chảy trơn tru đến hai chân. Người bệnh hoàn toàn tỉnh táo trong suốt quá trình can thiệp.
Anh Quang hết cảm giác khó chịu vùng bụng, ăn uống và sinh hoạt bình thường. Anh xuất viện sau đó một ngày, được dặn dò theo dõi, tập luyện và duy trì uống thuốc đầy đủ để giảm nguy cơ hẹp, tắc stent.
Phình động mạch không phải là bệnh lý “tự nhiên sinh ra”, mà thường là hậu quả của nhiều yếu tố khác nhau, dẫn đến suy yếu thành mạch máu theo thời gian. Thủ phạm chính gây ra tình trạng này là quá trình xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp, lối sống (hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, chế độ ăn uống không lành mạnh, ít vận động).
Ngoài ra, một số bệnh lý di truyền hiếm gặp, như hội chứng Marfan và hội chứng Ehlers-Danlos, làm cho thành mạch trở nên yếu và dễ bị tổn thương hơn bình thường, tăng nguy cơ phình động mạch và bóc tách động mạch chủ ở người trẻ tuổi. Các yếu tố khác như chấn thương, nhiễm trùng mạch máu, viêm mạch máu cũng có khả năng gây phình động mạch.
Bác sĩ Dũng cho hay 80% các trường hợp phình động mạch không có triệu chứng cho đến khi túi phình vỡ. Lúc này, cơ hội bệnh nhân được cứu sống chỉ khoảng 10% nếu đang ngoại viện, và khoảng 20% nếu người bệnh đang ở bệnh viện.
Để phát hiện sớm bệnh lý phình động mạch, mỗi người nên đi khám, tầm soát định kỳ. Khi xuất hiện các triệu chứng nghi túi phình lớn dần hoặc bắt đầu chèn ép các cơ quan lân cận như đau ngực dữ dội và đột ngột, choáng váng, chóng mặt, đau bụng quanh rốn, nhịp tim nhanh…, cần đến bệnh viện ngay.
Để giảm rủi ro mắc bệnh, cần tránh xa thuốc lá, kiểm soát huyết áp và chỉ số cholesterol, duy trì lượng đường trong máu, giữ cân nặng khỏe mạnh, khám sức khỏe định kỳ.
* Tên bệnh nhân đã được thay đổi
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH