Các loại vắc xin sống giảm độc lực có chứa vi sinh vật sống đã được làm yếu đi để không còn khả năng gây bệnh, nhưng vẫn đảm bảo khả năng miễn dịch mạnh mẽ, giúp cơ thể chống lại mầm bệnh. Vậy, có nên tiêm vắc xin sống giảm độc lực không? Ai có thể tiêm? Hiện tại Việt Nam có bao nhiêu loại vắc xin sống giảm độc lực đang lưu hành? Có cần lưu ý gì khi tiêm vắc xin sống giảm độc lực không? Tìm hiểu ngay trong bài viết dưới đây!
Bài viết được tham vấn Y khoa bởi BS Hoa Tuấn Ngọc – Quản lý Y khoa khu vực 1 Đông Nam Bộ, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC.
Vắc xin sống giảm độc lực chứa các tác nhân gây bệnh tự nhiên như virus được làm yếu đi bằng phương pháp nhân tạo tại phòng thí nghiệm. Điển hình như vắc xin đậu mùa, loại vắc xin đầu tiên trong lịch sử có chứa virus động vật (đậu bò) có khả năng bảo vệ chéo chống lại virus đậu mùa. Khi được đưa vào cơ thể, vắc xin sống giảm độc lực có khả năng tạo ra miễn dịch gần giống với miễn dịch tự nhiên khi cơ thể nhiễm trùng.
Vắc xin sống giảm độc lực xuất hiện từ những năm 1950, được xem là một trong những bước đột phá quan trọng trong y học dự phòng. Trải qua quá trình làm suy yếu và giảm độc lực trong phòng thí nghiệm, vi khuẩn hoặc virus trong vắc xin sẽ được làm suy yếu đủ để kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể mà không gây bệnh. Vắc xin sống giảm độc lực được đánh giá là một trong các loại vắc xin an toàn, hiệu quả bảo vệ cao, miễn dịch lâu dài.
Sau khi tiêm vacxin sống giảm độc lực, cơ thể sẽ huy động một loạt các biện pháp phòng thủ chống lại kháng nguyên trong vắc xin. Các tế bào được huy động bao gồm: Tế bào “T diệt” có chức năng xác định và tiêu diệt mầm bệnh, tế bào “T trợ giúp” với nhiệm vụ hỗ trợ quá trình sản xuất kháng thể chống lại mầm bệnh và các tế bào B sản xuất kháng thể nhắm vào các mầm bệnh ẩn náu tại các vị trí khác nhau trong cơ thể.
Phản ứng miễn dịch này diễn ra liên tục cho đến khi mầm bệnh hoàn toàn được loại bỏ. Điều này đồng nghĩa với việc cơ thể có nhiều thời gian để các tế bào ghi nhớ cách chống lại mầm bệnh. Do đó, vacxin sống giảm độc lực có khả năng kích hoạt phản ứng miễn dịch mạnh mẽ như cách cơ thể tiếp xúc với virus hoang dã, nhưng lại không gây bệnh cho cơ thể.
Tìm hiểu thêm: Cơ chế hoạt động của vaccine phòng bệnh như thế nào?
Quy trình sản xuất vắc xin sống giảm độc lực bắt đầu với việc nuôi cấy virus, vi khuẩn trong môi trường đặc biệt, nhằm giảm độc tính của tác nhân gây bệnh, khiến chúng không còn khả năng gây ra các nhiễm trùng khi được tiêm/uống vào cơ thể. Sau đó, mầm bệnh đã được làm suy yếu được kết hợp với các thành phần khác của vắc xin, như chất ổn định, chất bảo quản để tạo nên thành phẩm cuối cùng là vắc xin.
Do vacxin sống giảm độc lực là dạng gần giống với nhiễm trùng tự nhiên nhất, nên được xem là “người thầy” của hệ miễn dịch, mang lại khả năng kích thích sinh kháng thể mạnh hơn, giúp cơ thể có khả năng miễn dịch lâu dài.
Theo Liên minh toàn cầu về vắc xin(Gavi), vắc xin sởi là một trong những biện pháp y tế công cộng hiệu quả nhất hiện nay. Trước khi đưa vắc xin vào sử dụng năm 1963, thế giới đã ghi nhận khoảng 2 triệu ca tử vong do sởi mỗi năm.
Năm 1974, WHO đã triển khai Chương trình Tiêm chủng Mở rộng (EPI), đưa sởi vào danh sách bệnh cần phòng ngừa bằng vắc xin. Từ đó, số ca sởi giảm mạnh, từ gần 4 triệu ca vào năm 1980 còn khoảng 205.000 ca vào năm 2022. Dù tỷ lệ trẻ tiêm đủ 2 mũi vắc xin tăng lên từ năm 2000, song gần đây có dấu hiệu chững lại. Năm 2023, chỉ có 74% trẻ toàn cầu được tiêm 2 liều.
Bên cạnh sởi, quai bị có thể gây biến chứng trầm trọng như viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn ở nam giới với khoảng 50% trường hợp tinh hoàn teo dần, dẫn đến vô sinh; viêm buồng trứng thường gặp ở 7% phụ nữ sau tuổi dậy thì. Ngoài ra, còn một số biến chứng như nhồi máu phổi, viêm tụy, tổn thương thần kinh…
Từ khi vắc xin rubella ra đời và được triển khai tiêm chủng rộng rãi cho người dân trên toàn thế giới, số ca mắc bệnh, biến chứng, nhập viện và tử vong do bệnh đã ghi nhận suy giảm đáng kể, góp phần cải thiện chất lượng sức khỏe của hàng trăm triệu trẻ em và người lớn trên toàn cầu.
Rubella trong 3 tháng đầu thai kỳ có 90% nguy cơ lây truyền virus từ mẹ sang thai nhi, khiến trẻ mắc hội chứng rubella bẩm sinh. Trẻ sơ sinh mắc hội chứng rubella bẩm sinh có thể gánh chịu dị tật nặng nề. Ngoài điếc, hội chứng rubella bẩm sinh còn có dị tật ở mắc, tim, não. Ước tính mỗi năm có 700.000 trẻ tử vong do hội chứng rubella bẩm sinh. Ở các quốc gia phát triển, rubella gần như được loại trừ nhờ chương trình tiêm chủng cho trẻ em. Tuy nhiên, tỷ lệ tiêm chủng cần đạt trên 80% để tránh nguy cơ lây truyền cho những đối tượng ở độ tuổi lớn hơn.
Bại liệt là bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa, có khả năng gây liệt chi không hồi phục, liệt nửa người, liệt tủy sống, suy hô hấp… và thậm chí tử vong. Trước khi nước ta có thể tự sản xuất vắc xin bại liệt, căn bệnh từng có tỷ lệ mắc lên đến 126,44/100.000 dân.
Từ năm 1985, vắc xin được đưa vào chương trình Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em dưới 1 tuổi. Đến năm 2000, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận nước ta đã thanh toán thành công bệnh bại liệt.
Tuy nhiên, đến năm 2021 – 2022, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhiều địa phương dừng triển khai tiêm chủng, dẫn đến tỷ lệ tiêm nhiều loại vắc xin ở mức thấp nhất trong vòng 20 năm qua. Trong đó, tỷ lệ uống và tiêm vắc xin bại liệt năm 2021 chỉ đạt 69,4% và 80,4%. Năm 2022 chỉ đạt 70,1% và 89,2%, tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 73%. (1)
Các chuyên gia khuyến cáo trẻ em cần chủng ngừa vắc xin đầy đủ, không trì hoãn, bỏ tiêm. Nếu tỷ lệ chủng ngừa vắc xin tiếp tục giảm trong cộng đồng sẽ không còn đủ sức bảo vệ những trẻ chưa chủng ngừa. Dịch bệnh bại liệt sẽ có nguy cơ quay trở lại lần nữa.
Sau đại dịch COVID-19, bệnh lao có dấu hiệu quay trở lại trên thế giới. Trong năm 2023, chương trình Chống lao quốc gia ghi nhận hơn 78.000 ca lao, tăng hơn 1.900 ca (khoảng 2%) so với cùng kỳ 2022 và tăng 32% so với năm 2021.
Thế giới hiện nay có khoảng 2 tỷ người nhiễm lao, chiếm ¼ dân số (2). Năm 2021, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thống kê có khoảng 10,6 triệu người mắc các thể lao và 1,6 triệu ca tử vong. Còn theo Bộ Y tế nước ta, trẻ em là đối tượng chiếm 10 – 15% trên tổng số ca mắc lao mới hằng năm. Do đó, việc chủ động phòng lao bằng cách tiêm cho trẻ vắc xin trong 24 giờ đầu sau sinh là rất cần thiết.
Theo Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh TP.HCM (HCDC), chủng ngừa muộn có thể tăng nguy cơ mắc bệnh lao ở trẻ, do hệ miễn dịch của trẻ mới sinh còn rất yếu ớt, dễ bị tấn công bởi mầm bệnh. Tiêm phòng lao cho trẻ có hiệu quả phòng ngừa nhiều hình thái lao nguy hiểm, trong đó có lao màng não.
Bệnh thủy đậu xuất hiện quanh năm, mùa cao điểm thường rơi vào khoảng tháng 3 đến tháng 5 hằng năm. Trước khi vắc xin được triển khai tiêm rộng rãi có đến 95% dân số mắc bệnh thủy đậu. Theo các chuyên gia, trong một cộng đồng chưa có miễn dịch, tỷ lệ lây nhiễm bệnh thủy đậu giữa người bệnh và người lành trong cùng gia đình có thể khoảng 87%. Tỷ lệ lây nhiễm bệnh thủy đậu tại bệnh viện là khoảng 70%.
Một người bệnh thủy đậu có thể lây bệnh cho khoảng 8 – 12 người chưa có miễn dịch với sởi. Nếu tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu khi được được chủng ngừa, tốt nhất bạn nên tiêm phòng ngay trong 3 – 5 ngày kể từ thời điểm tiếp xúc. Nếu tiếp xúc quá 5 ngày, việc tiêm ngừa vẫn hiệu quả giảm nguy cơ mắc bệnh nặng và nhiễm thủy đậu trong tương lai.
Theo WHO, mỗi năm có khoảng 68.000 người trên thế giới mắc viêm não Nhật Bản, 75% trong số đó là trẻ em từ 14 tuổi trở xuống và có khoảng 15.000 đến 20.000 người tử vong. Viêm não Nhật bản có tỷ lệ tử vong khoảng 20 – 30% và tỷ lệ di chứng có thể lên đến 50%.
Theo Cục Dự phòng, Bộ Y tế, trước khi có vắc xin viêm não Nhật Bản triển khai trong chương trình Tiêm chủng mở rộng, viêm não Nhật Bản là nguyên nhân của 25 – 30% ca nhập viện, nhiều ca tử vong.
Trước khi có vắc xin, tiêu chảy cấp do Rotavirus là bệnh thường gặp ở trẻ em tại Mỹ. Hầu như trẻ em dưới 5 tuổi tại quốc gia này đều có ít nhất 1 lần nhiễm virus Rota. Ước tính, hằng năm có khoảng 453.000 trẻ dưới 5 tuổi tử vong do virus Rota. Bệnh viện Nhi Trung ương thống kê, tiêu chảy do virus Rota thuộc nhóm 10 bệnh lý gây tử vong hàng đầu ở trẻ em Việt Nam.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, hầu hết trẻ uống vắc xin ngừa virus Rota sẽ được bảo vệ không mắc bệnh tiêu chảy do virus Rota. Tuy nhiên, vắc xin sẽ không ngăn ngừa tiêu chảy do các nguyên nhân khác gây nên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, số ca sốt xuất huyết tăng gấp 10 lần trong giai đoạn 2000 – 2019. Cụ thể, năm 2000 số ca sốt xuất huyết là 500.000 và năm 2019 là 5 triệu ca. Tại Việt Nam, từ 2019 – 2023, sốt xuất huyết có 2 đỉnh dịch là 2019 và 2022. Chỉ tính riêng năm 2022, cả nước đã ghi nhận hơn 367.000 ca mắc, đứng thứ 2 toàn cầu.
Vắc xin sốt xuất huyết được bào chế từ virus sống, giảm độc lực trên công nghệ tái tổ hợp, có khả năng phòng ngừa cả 4 tuýp huyết thanh của virus gây bệnh sốt xuất huyết với hiệu quả hơn 80%, ngăn nguy cơ nhập viện đến 90% và quan trọng nhất là phòng nguy cơ tái nhiễm bệnh cho người từng mắc sốt xuất huyết.
Vắc xin sốt xuất huyết Qdenga của hãng dược Takeda được thử nghiệm trên 28.000 người tại 8 quốc gia có dịch bệnh lưu hành. Tháng 5/2024, WHO tiền thẩm định và đánh giá tính an toàn, hiệu quả của vắc xin phòng sốt xuất huyết. Dữ liệu cho thấy vắc xin dung nạp tốt, không ghi nhận vấn đề nghiêm trọng về tính an toàn.
Đến tháng 10/2024, vắc xin sốt xuất huyết Qdenga đã được Hệ thống tiêm chủng VNVC đưa về Việt Nam, ra mắt và triển khai tiêm chủng cho trẻ em từ 4 tuổi và người lớn tại hàng trăm trung tâm VNVC hiện đại trên toàn quốc, mang đến cơ hội được tiếp cận với loại vắc xin được người dân cả nước mong đợi trong hàng chục năm qua.
Sốt vàng là bệnh truyền nhiễm gây ra những hậu quả y tế cực kỳ nghiêm trọng, theo thống kê cứ 10 người mắc bệnh sốt vàng sẽ có 4 người tử vong (3). Ở giai đoạn toàn phát của bệnh sốt vàng, người bệnh có dấu hiệu xuất huyết niêm mạc, chảy máu cam, nôn ra máu, đi ngoài phân đen… Trường hợp nặng có thể dẫn đến suy đa tạng như suy gan, thận, trụy tim mạch, vàng da, sốc nhiễm khuẩn. Tỷ lệ tử vong ở thể nặng có thể lên đến 20 – 50%, các thể khác sẽ khoảng 5%. (4)
Bệnh chủ yếu lưu hành tại các quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ và Trung Mỹ, trong đó trên 70% ca tập trung ở Peru và Bolivia. Việt Nam cho đến nay chưa ghi nhận ca bệnh sốt vàng, tuy nhiên các biện pháp kiểm dịch y tế tại biên giới rất quan trọng nhằm phát hiện và xử trí sớm những trường hợp nghi ngờ sốt vàng xâm nhập.
Vắc xin sống giảm độc lực là loại vắc xin chứa vi sinh vật sống nhưng đã được làm yếu đi, giúp “triệt tiêu” khả năng gây bệnh mà vẫn duy trì khả năng kích thích phản ứng miễn dịch hiệu quả. Các loại vắc xin sống giảm độc lực được sản xuất với quy trình nghiêm ngặt, bao gồm việc phân lập virus độc lực cao và thực hiện các biện pháp điều chỉnh gen để loại bỏ độc lực mà không làm mất đi tính miễn dịch của vắc xin.
Tuy nhiên, việc sử dụng vaccine sống giảm độc lực cần được thực hiện với sự thận trọng, đặc biệt là đối với những nhóm người như phụ nữ mang thai, người có hệ miễn dịch yếu hoặc những người đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch, do họ có nguy cơ cao hơn gặp phải biến chứng khi tiếp xúc với virus sống, mặc dù những rủi ro này chủ yếu là lý thuyết và hiếm khi xảy ra trong thực tế.
Ngoài ra, một yếu tố khác cần xem xét là tác dụng phụ. Các phản ứng thông thường có thể bao gồm sốt nhẹ, đau tại chỗ tiêm hoặc đôi khi là các triệu chứng giống như bệnh. Ví dụ như vắc xin sởi gây ra các tác dụng phụ như phát ban nhẹ, vắc xin rota gây tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa thoáng qua sau khi uống… Đặc biệt, đối với trẻ em, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những tác dụng phụ này thường nhẹ và tự giới hạn, trong khi lợi ích bảo vệ khỏi bệnh tật là rõ rệt và quan trọng hơn nhiều.
Tóm lại, vắc xin sống giảm độc lực đã chứng minh được độ an toàn qua nhiều năm nghiên cứu và sử dụng rộng rãi. Dù có một số lưu ý cần thiết trong việc chỉ định, đặc biệt với những nhóm đối tượng nhạy cảm, lợi ích từ việc tiêm vắc xin này trong việc phòng ngừa hiệu quả các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm là điều không thể phủ nhận.
Để người sử dụng hiểu rõ hơn về vắc xin sống giảm độc lực, chúng ta cùng đi vào phân tích những ưu, nhược điểm mà loại vắc xin này mang lại.
Mặc dù vắc xin sống giảm độc lực có hiệu quả bảo vệ cao và lâu dài, nhưng vẫn tồn tại một số nhược điểm nhất định như:
Không thể tiêm cho người suy giảm miễn dịch
Vắc xin sống giảm độc lực chống chỉ định tiêm cho những đối tượng suy giảm miễn dịch. Do những người suy giảm miễn dịch bởi hậu quả của bệnh tật như nhiễm HIV, hóa trị, xạ trị bệnh ung thư… không có khả năng chống lại các mầm bệnh dù đã được giảm độc lực. Thay vì có khả năng miễn dịch sau khi tiêm vắc xin như những người khỏe mạnh, người suy giảm miễn dịch có thể mắc bệnh nếu tiêm vắc xin sống giảm độc lực.
Không thể tiêm cho phụ nữ mang thai
Trong quá trình mang thai, hệ miễn dịch của phụ nữ bị suy giảm. Do đó, cũng tương tự các nhóm đối tượng suy giảm miễn dịch khác, phụ nữ mang thai không thể tiêm vacxin sống giảm độc lực.
Khó bảo quản, vận chuyển và phân phối
Quá trình bảo quản, vận chuyển vaccine sống giảm độc lực đòi hỏi phải được bảo quản nghiêm ngặt và liên tục trong nhiệt độ thấp. Tiêu chuẩn bảo quản này gây khó khăn cho những cơ sở tiêm chủng không đáp ứng điều kiện bảo quản, phải vận chuyển vắc xin đi những vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển.
Tùy vào mỗi loại vắc xin sống giảm độc lực sẽ chỉ định cho từng đối tượng và độ tuổi khác nhau. Ví dụ vacxin sống giảm độc lực phòng sởi quai bị rubella MMR II được chỉ định chủng ngừa cho trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên và người lớn. Vắc xin Lao (BCG) được chỉ định tiêm cho trẻ có cân nặng từ 2.000 gram trở lên và tiêm càng sớm càng tốt trong 30 ngày sau khi sinh.
Một số đối tượng chống chỉ định tiêm vaccine sống giảm độc lực có thể bao gồm:
Tương tự như các loại thuốc hay vắc xin khác, vắc xin sống giảm độc lực có thể gây các phản ứng sau tiêm tại chỗ và toàn thân thường gặp. Tuy nhiên, các phản ứng sau tiêm thường nhẹ, nhanh chóng thuyên giảm và tự khỏi mà không cần can thiệp y tế.
Mặt khác, các phản ứng sau tiêm nhẹ hay nặng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: đáp ứng miễn dịch của cơ thể, thành tố vắc xin, chăm sóc sau tiêm (tại cơ sở tiêm chủng và tại nhà). Do đó, đối tượng tiêm chủng cần tuân thủ nguyên tắc theo dõi phản ứng sau tiêm tại cơ sở tiêm chủng trong ít nhất 30 phút và tiếp tục theo dõi tại nhà trong vòng 24 – 48 giờ tiếp theo. Các phản ứng nặng rất hiếm gặp nhưng cũng có khả năng xảy ra. Lúc này, đối tượng tiêm chủng cần được đưa đến cơ sở y tế gần nhất càng sớm càng tốt.
Không chỉ vắc xin sống giảm độc lực, mà các loại vắc xin nói chung đều có những yêu cầu khắt khe trong bảo quản, vận chuyển, phân phối và thực hành tiêm chủng. Do đó, để được tiêm chủng an toàn, hiệu quả tối ưu, người dân nên đến những cơ sở chủng ngừa uy tín, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu cơ sở vật chất trong bảo quản, phân phối và thực hành tiêm chủng vắc xin an toàn như Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC.
Đầu tiên là khâu nhập khẩu. Với thế mạnh là đối tác chiến lược toàn diện của nhiều hãng vắc xin hàng đầu thế giới như Glaxosmithkline – GSK (Bỉ), Sanofi Pasteur (Pháp), Pfizer (Mỹ), Merck Sharp and Dohme (Mỹ), AstraZeneca (Anh), Abbott (Hà Lan)…, nhờ đó VNVC được phép nhập khẩu nguồn vắc xin chính hãng, chất lượng cao, được đảm phán đặt trước số lượng lớn vắc xin trong nhiều năm, đảm bảo nguồn cung liên tục và bền vững, đáp ứng đầy đủ nhu cầu chủng ngừa vắc xin phòng bệnh của hàng chục triệu trẻ em và người lớn Việt Nam.
VNVC xây dựng và vận hành chuyên nghiệp hệ thống dây chuyền lạnh (Cold Chain) bảo quản vắc xin đạt tiêu chuẩn quốc tế với quy mô lớn, bao gồm các kho tổng ở cả 3 miền Bắc – Trung – Nam, hệ thống hàng trăm kho lạnh trung tâm tại chỗ, cùng dàn xe lạnh vận chuyển vắc xin trên toàn quốc và hệ thống tủ bảo quản chuyên dụng đều đạt chuẩn GSP quốc tế tại mỗi phòng tiêm, giúp bảo quản vắc xin trong nhiệt độ tiêu chuẩn từ 2 đến 8 độ C theo đúng yêu cầu từ nhà sản xuất.
Đây là một trong những ưu điểm giúp VNVC có khả năng bảo quản chất lượng các loại vắc xin sống giảm độc lực cũng như nhiều loại vắc xin khác đòi hỏi yêu cầu bảo quản nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho người sử dụng.
Ngoài ra, VNVC luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tiêm chủng an toàn của Bộ Y tế. 100% bác sĩ, điều dưỡng viên tại Hệ thống tiêm chủng VNVC có chứng chỉ an toàn tiêm chủng, được đào tạo bài bản các kiến thức và thực hành tiêm chủng an toàn. Sau tiêm, khách hàng được giữ lại vỏ hộp và tờ hướng dẫn sử dụng để tham khảo, xilanh và lọ vắc xin được thu hồi, xử lý đúng quy định rác thải y tế.
VNVC có tổng đài hỗ trợ 24/7, không chỉ giải đáp thắc mắc cho khách hàng VNVC mà còn hỗ trợ toàn bộ người dân trong việc theo dõi và xử trí phản ứng sau tiêm. Các thao tác trước, trong, sau tiêm được thực hiện và giám sát chặt chẽ bởi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn cao.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Các loại vắc xin sống giảm độc lực mang lại hiệu quả bảo vệ cao, tính sinh miễn dịch bền vững. Tuy nhiên, chống chỉ định với các đối tượng suy giảm miễn dịch, phụ nữ mang thai… Để được tư vấn, chỉ định hoặc hướng dẫn về tiêm chủng vắc xin sống giảm độc lực an toàn và hiệu quả, Quý Khách hàng có thể đến ngay các trung âm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc hoặc gọi đến đường dây nóng 028.7102.6595.