Cường giáp là tình trạng rối loạn chức năng tuyến giáp, trong đó tuyến giáp hoạt động mạnh hơn và tiết ra nhiều hormone giáp vượt quá nhu cầu của cơ thể. Tuy nhiên, có 1 dạng đặc biệt là cường giáp dưới lâm sàng. Vậy tình trạng này là gì? Nên điều trị thế nào? Dưới đây là những thông tin về bệnh này, được BS.CKI Đỗ Tiến Vũ chia sẻ.
Cường giáp dưới lâm sàng là chẩn đoán dựa vào xét nghiệm sinh hóa, theo đó nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH) thấp hoặc không phát hiện được trong khi nồng độ hormone tuyến giáp thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3) hoàn toàn bình thường. Người bệnh không có hoặc có rất ít các dấu hiệu của bệnh.
Có nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau, gồm yếu tố ngoại sinh và nội sinh, trong đó tác nhân ngoại sinh sẽ phổ biến hơn.
Nguyên nhân nội sinh của tình trạng này gồm:
Nguyên nhân ngoại sinh gây cường tuyến giáp dưới lâm sàng thường do người bệnh sử dụng quá liều thuốc hormone giáp tổng hợp và một số loại thuốc gây TSH thấp như dopamine, glucocorticoid…
Những đối tương có nguy cơ cao bị bệnh gồm:
Hầu hết người bệnh không có biểu hiện lâm sàng, nếu có thì những triệu chứng thường nhẹ và không đặc hiệu (ví dụ: nhịp tim nhanh, run tay, khó thở khi gắng sức, sụt cân). Bệnh thường chỉ được phát hiện thông qua kiểm tra chức năng tuyến giáp định kỳ.
Đây là tình trạng có thể nguy hiểm, nhất là với người bệnh cao tuổi, người có bệnh lý nền về tim mạch hoặc loãng xương. Dù bệnh không gây các triệu chứng rõ ràng, nhưng người bệnh có nguy cơ gặp các biến chứng nghiêm trọng như rung nhĩ, nguy cơ suy tim, bệnh mạch vành, tăng nguy cơ gãy xương…
Chẩn đoán tình trạng cường tuyến giáp chủ yếu dựa trên kết quả xét nghiệm sinh hóa. Tình trạng này được định nghĩa là người bệnh có hoặc không có các triệu chứng và nồng độ TSH trong huyết thanh dưới mức bình thường (<0,4mIU/L).
Dạng đặc biệt này được chia làm 2 mức độ:
Vì nồng độ TSH huyết thanh có thể giảm thoáng qua, nên người bệnh cần được đo TSH huyết thanh cùng với FT4 và T3 lặp lại sau 1 – 3 tháng để xác định chẩn đoán. (1)
Người bệnh có thể được điều trị hoặc theo dõi tùy từng trường hợp, phụ thuộc vào các yếu tố: nguyên nhân gây bệnh, tuổi, tiền sử bệnh và tình trạng sức khỏe của người bệnh, nguy cơ biến chứng… Nếu người bệnh không có triệu chứng bất thường, không có nguy cơ biến chứng và có mức TSH từ 0,1mIU/L đến giới hạn dưới của mức bình thường có thể được theo dõi thường xuyên, không cần điều trị.
Với người bệnh do bướu giáp đa nhân hay đơn nhân độc kèm các yếu tố nguy cơ như rung nhĩ, loãng xương… bác sĩ có thể cân nhắc xạ trị bằng i-ốt phóng xạ để điều trị dứt điểm. Điều trị nội khoa (bằng thuốc kháng giáp tổng hợp và thuốc chẹn beta), i-ốt phóng xạ và phẫu thuật để kiểm soát triệu chứng và giảm sản xuất hormone giáp là những lựa chọn phù hợp với người bệnh.
Nếu không được điều trị, tình trạng này có thể gây ra các biến chứng như:
Hiện chưa có cách nào phòng ngừa hoàn toàn bệnh này. Tuy nhiên, bạn có thể áp dụng các cách phòng dưới đây để giảm nguy cơ mắc bệnh:
Dưới đây là những thắc mắc liên quan đến chủ này:
Bệnh thường có thể tự khỏi ở người bệnh có mức TSH từ 0,1mIU/L – 0,4mIU/L, không có nguy cơ biến chứng. Trong trường hợp này, người bệnh chỉ cần tái khám, xét nghiệm các chỉ số TSH, hormone tuyến giáp định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ từ các bệnh viện uy tín.
Bệnh có thể ảnh hưởng đến thai kỳ nếu không được phát hiện và xử trí phù hợp. Thai phụ có nguy cơ rối loạn nhịp tim, khó đạt các mốc cân nặng trong thai kỳ, căng thẳng, mất ngủ, hồi hộp, đồng thời tăng nguy cơ sảy thai sớm và ảnh hưởng quá trình phát triển thần kinh ở thai nhi.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Cường giáp dưới lâm sàng là bệnh không có triệu chứng rõ ràng, người bệnh thường chỉ phát hiện bệnh thông qua xét nghiệm chức năng tuyến giáp định kỳ. Nếu không được phát hiện, theo dõi hoặc điều trị phù hợp, người bệnh có thể xuất hiện biến chứng về tim mạch, xương khớp…, do đó người trong nhóm nguy cơ mắc bệnh cao cần đi xét nghiệm kiểm tra chức năng tuyến giáp thường xuyên theo hướng dẫn của bác sĩ.