Viêm cơ nhiễm khuẩn hay viêm cơ sinh mủ là tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn, gây ra phản ứng viêm cấp tính, thậm chí có thể dẫn đến áp xe ở cơ. Bệnh thường khởi phát với các triệu chứng như sốt, đau cơ dữ dội, sưng, nóng đỏ ở vị trí viêm. Phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể giúp người bệnh hồi phục hoàn toàn và hạn chế các biến chứng nguy hiểm.
Viêm cơ nhiễm khuẩn (infectious myositis) là một bệnh nhiễm trùng hiếm gặp do vi khuẩn, xảy ra cấp tính, bán cấp hoặc mạn tính ở cơ. Bệnh thường ảnh hưởng đến phần dưới cơ thể như cơ đùi hoặc cơ vùng chậu.
Bệnh thường gây ra các ổ áp xe sâu trong cơ và không thể quan sát bằng mắt thường (1). Người bệnh thường có cảm giác đau dữ dội trong cơ và gặp khó khăn khi cử động ở cơ bị ảnh hưởng.
Có nhiều tác nhân gây bệnh, bao gồm virus, vi khuẩn (bao gồm cả vi khuẩn lao), nấm và ký sinh trùng có thể gây viêm cơ nhưng tác nhân truyền nhiễm phổ biến nhất là vi khuẩn Staphylococcus aureus (tụ cầu khuẩn vàng), chiếm hơn 75% các trường hợp (2).
Vi khuẩn Staphylococcus aureus là vi khuẩn hình cầu, gram dương thường xuất hiện trên da và niêm mạc của người khỏe mạnh. Khi có điều kiện thuận lợi như suy giảm miễn dịch, vết thương hở, phẫu thuật… vi khuẩn này có thể xâm nhập vào cơ thể gây ra các bệnh nhiễm trùng, bao gồm viêm cơ nhiễm khuẩn.
Cơ xương có khả năng chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, nhưng trong một số trường hợp vi khuẩn vẫn có khả năng tấn công các mô cơ, xương. Một số nguyên nhân viêm cơ nhiễm trùng như:
Tình trạng này thường là kết quả của sự lây lan tiếp giáp từ các vị trí nhiễm trùng lân cận vào cơ. Các tình trạng như viêm da, áp xe dưới da hoặc viêm tủy xương nếu không được kiểm soát có thể khiến vi khuẩn theo đường máu xâm nhập vào các cơ gây viêm. Trẻ nhỏ hoặc người suy giảm miễn dịch có nguy cơ mắc bệnh cao hơn do đề kháng kém và mô liên kết dễ bị tổn thương.
Vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp qua các vết thương hở hoặc sau phẫu thuật không đảm bảo vô khuẩn. Điều này tạo điều kiện cho vi khuẩn ngoại sinh tấn công vào các mô cơ. Nếu không được xử lý vết thương hoặc nhiễm trùng đúng cách, người bệnh có nguy cơ cao bị nhiễm trùng sâu.
Thiếu máu cục bộ là tình trạng mô cơ không nhận đủ máu giàu oxy cần thiết khiến giảm sức đề kháng tại chỗ. Các tế bào cơ không nhận đủ oxy và chất dinh dưỡng dẫn đến tổn thương và chết, tạo điều kiện thuận lợi để vi khuẩn phát triển. Thiếu máu cục bộ gây viêm cơ nhiễm khuẩn thường gặp ở người mắc các bệnh mạch máu ngoại biên, nằm lâu khiến mô bị đè ép kéo dài hoặc hoại tử mô do chấn thương.
Một số dị vật như mảnh xương, chỉ phẫu thuật không tiêu có thể tồn tại trong cơ thể và gây viêm mạn tính. Các dị vật này không thể loại bỏ hoàn toàn, khiến vi khuẩn xâm nhập và gây viêm. Đây là ổ vi khuẩn khó loại bỏ và khiến viêm cơ tái phát nhiều lần.
Vi khuẩn theo đường máu từ các ổ viêm khác đến mô cơ gây nhiễm trùng cơ. Một số loại vi khuẩn như Staphylococcus aureus có khả năng theo dòng máu đến các cơ, tiết ra độc tố phá huỷ mô và kích thích phản ứng viêm. Trẻ nhỏ hoặc người suy giảm miễn dịch có nguy cơ cao mắc bệnh, do hệ miễn dịch tại mô cơ bị hạn chế không ngăn chặn được vi khuẩn xâm nhập.
Suy giảm miễn dịch là yếu tố nguy cơ quan trọng gây bệnh. Khi cơ thể bị mất hoặc giảm khả năng miễn dịch chống lại vi khuẩn, vi khuẩn dễ dàng xâm nhập và phát triển trong các mô cơ gây viêm.
Một số đối tượng suy giảm miễn dịch có nguy cơ mắc bệnh cao hơn như người mắc HIV/AIDS, người đang hóa trị, xạ trị, bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch, người suy thận, tiểu đường, người cao tuổi, trẻ sơ sinh…
Người mắc tiểu đường có hệ miễn dịch kém và lưu lượng máu đến mô ngoại vi giảm, khiến vi khuẩn dễ xâm nhập vào các mô gây viêm. Bệnh nhân tiểu đường cũng dễ bị nhiễm trùng da, loét chân. Đây là ổ viêm có thể lan đến cơ và gây viêm cơ.
Khi gặp các nhiễm trùng da nông như viêm mô tế bào, áp xe dưới da, nếu không được điều trị kịp thời, tình trạng nhiễm trùng có thể lan sâu xuống lớp cơ bên dưới gây viêm cơ. Đây là con đường lây lan tiếp giáp phổ biến của viêm cơ do nhiễm trùng.
Nhiễm trùng lan xuống cơ có thể gây ra viêm cơ cấp tính, sưng đau dưới vùng da tổn thương, tăng nguy cơ hình thành áp xe cơ sâu khó điều trị.
Các chấn thương cơ học có thể gây tụ máu, tổn thương các tế bào cơ, thiếu oxy tại chỗ. Ở các vùng mô tổn thương thường giảm lưu thông máu, suy yếu hệ miễn dịch tại chỗ, tạo điều kiện lý tưởng để vi khuẩn phát triển. Nếu vùng da có chấn thương hở, vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp vào mô cơ.
Người tiêm chích ma túy sử dụng kim tiêm không đảm bảo vô trùng, khi tiêm vào da sẽ đưa vi khuẩn trực tiếp vào máu hoặc cơ dẫn đến viêm cơ. Đây là yếu tố nguy cơ cao dẫn đến tình trạng viêm do nhiễm khuẩn. Đối với người nhiễm HIV, sức đề kháng suy giảm cũng dễ nhiễm vi khuẩn gây nhiễm trùng.
Một số triệu chứng bệnh thường gặp như:
Dựa trên mức độ nghiêm trọng hoặc mức độ lan rộng của tình trạng nhiễm trùng, tình trạng này thường xảy ra theo 3 giai đoạn chính:
Nếu không được điều trị đúng cách và kịp thời, nhiễm trùng do vi khuẩn có thể gây ra nhiều biến chứng như nhiều ổ áp xe trong cơ thể gây sốc nhiễm trùng. Vi khuẩn có thể lây lan sang các cấu trúc lân cận dẫn đến viêm tủy xương, viêm khớp nhiễm trùng, tổn thương nội tạng, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến tử vong.
Một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh có thể giúp phát hiện vị trí, mức độ nhiễm trùng của các ổ bệnh như:
Siêu âm là phương pháp chẩn đoán ban đầu không xâm lấn giúp đánh giá tình trạng viêm cơ mủ. Thông qua hình ảnh siêu âm có thể giúp bác sĩ xác định tình trạng phù nề cơ, thâm nhiễm mỡ, viêm cơ cấp tính hay mạn tính qua tình trạng tăng hoặc giảm hồi âm. Nếu bệnh có thể có biểu hiện ở cân mạc như mất ranh giới rõ ràng giữa các lớp cơ hoặc tăng bề dày, biến dạng do phù nề cơ.
Qua siêu âm Doppler có thể xác định mức độ tăng tưới máu mô khi viêm hoạt động, hữu ích trong phân biệt giữa mô viêm và áp xe hoặc hoại tử mô. Siêu âm cũng giúp phát hiện dị vật hoặc áp xe.
Hình ảnh cắt lớp vi tính (CT) thường cho thấy cơ bị sưng, giảm tỷ trọng, mờ lớp mỡ xung quanh. Nếu có áp xe thể hiện dưới dạng tụ dịch trong cơ, CT cũng giúp phân biệt ổ hoại tử với áp xe.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) được đánh giá là phương pháp tối ưu giúp xác định mắc bệnh. MRI cho phép bác sĩ quan sát và đánh giá cấu trúc mô mềm như mô cơ và các ổ viêm, mức độ lan rộng, phân biệt cụ thể và chính xác tình trạng viêm, hoại tử, áp xe một cách rõ ràng. Thông qua hình ảnh MRI, bác sĩ có thể lên kế hoạch điều trị, xác định vị trí cần phẫu thuật dẫn lưu mủ hoặc nạo ổ áp xe.
Tùy thuộc vào các tác nhân gây nhiễm trùng, mức độ nhiễm trùng cơ, giai đoạn bệnh viêm cơ mủ, bác sĩ sẽ chỉ định các phương pháp điều trị đơn lẻ hoặc kết hợp. Trong đó:
Thuốc kháng sinh là phương pháp điều trị chính, đặc biệt ở giai đoạn đầu khi ổ viêm chưa hình thành mủ. Giai đoạn đầu bác sĩ có thể chỉ định kháng sinh đường truyền tĩnh mạch để kiểm soát nhiễm khuẩn toàn thân.
Lưu ý:
Ở giai đoạn hình thành ổ mủ trong cơ, sử dụng kháng sinh đơn thuần không mang lại hiệu quả. Bác sĩ sẽ chỉ định dẫn lưu mủ bằng cách dẫn lưu qua da dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT. Nếu ổ mủ có kích thước lớn và vị trí khó tiếp cận qua siêu âm, bác sĩ có thể can thiệp dẫn lưu mủ hở bằng cách phẫu thuật.
Phẫu thuật viêm cơ do nhiễm khuẩn được chỉ định khi ổ áp xe lớn, hoại tử nhiều không thể dẫn lưu qua da. Nếu cơ thể có di vật, mô hoại tử cần được loại bỏ triệt để để tránh tái viêm. Bệnh nhân có thể cần phẫu thuật nhiều lần nếu nhiễm trùng lan rộng và tái phát.
Sau điều trị, bệnh nhân có thể cần tập vật lý trị liệu để phục hồi chức năng vận động ở vùng cơ bị tổn thương.
Tình trạng này có thể phòng ngừa được nếu biết cách kiểm soát các yếu tố nguy cơ và vệ sinh cá nhân hàng ngày. Đối với trẻ em, người cao tuổi hoặc người có hệ miễn dịch yếu, việc phòng ngừa là cần thiết để hạn chế nguy cơ mắc phải.
Để đặt lịch thăm khám và điều trị tại hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Quý Khách hàng vui lòng liên hệ theo phương thức:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Viêm cơ nhiễm khuẩn là tình trạng hiếm gặp nhưng có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí tử vong. Bệnh có thể tiến triển thành các ổ áp xe, hoại tử mô cơ cần can thiệp dẫn lưu hoặc phẫu thuật loại bỏ. Người bệnh nên thăm khám sớm khi có dấu hiệu nghi ngờ bệnh để điều trị kịp thời, tránh biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.