Bệnh bướu cổ có nguy hiểm không là vấn đề được rất nhiều bệnh nhân thắc mắc. Bệnh bướu cổ có nhiều loại khác nhau, tùy mức độ bệnh mà bác sĩ đưa ra phương pháp điều trị phù hợp. Bệnh nhân đừng quá lo lắng, bệnh dù là bướu cổ ác tính cũng có thể điều trị khỏi.
Bướu tuyến giáp là tình trạng kích thước tuyến giáp tăng lên, sưng to bất thường do tế bào tuyến giáp phát triển quá mức hoặc không đồng đều. Tuyến giáp to ra do vấn đề sinh lý hoặc bệnh lý. Bướu cổ xuất hiện khi mang thai là một trong những nguyên nhân gây ra bướu cổ sinh lý do cơ thể người mẹ sản xuất hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) khiến tuyến giáp hoạt động quá mức và hơi to ra. Bướu cổ bệnh lý thường liên quan đến viêm giáp, thiếu i-ốt,… (1)
Có 3 loại bướu cổ: bướu cổ lành tính (bướu đơn thuần), bướu cổ ác tính và bướu cổ do cường giáp.
Phần lớn bướu cổ lành tính, điều trị bằng thuốc, uống phóng xạ phẫu thuật. Trường hợp bướu tuyến giáp ác tính, người bệnh cần điều trị theo phác đồ do bác sĩ chỉ định. Các bướu giáp ác tính có thể điều trị thành công, đặc biệt ở giai đoạn sớm (chưa di căn).
Đa phần bướu cổ không nguy hiểm. Với bướu cổ lành tính, nếu kích thước lớn có thể dẫn đến tổn thương thần kinh (liệt dây thần kinh phrenic, hội chứng Horner và liệt dây thần kinh thanh quản tái phát). Các tổn thương này sẽ chấm dứt sau khi phẫu thuật tuyến giáp. Ngoài ra, tuyến giáp quá lớn chèn ép thực quản khiến người bệnh khó nuốt, khi ăn uống.
Với bướu cổ ác tính (ung thư tuyến giáp), ở giai đoạn sớm, triệu chứng bệnh thường không rõ ràng. Người bệnh thường phát hiện bướu cổ khi khám sức khỏe định kỳ qua siêu âm, chụp CT, MRI vùng cổ vì bệnh khác. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bướu ác tính to lên nhanh chóng.
Ở giai đoạn trễ, khối u trở nên to và cứng, cố định trước cổ. Người bệnh bị khàn tiếng nặng, khó thở, khó nuốt, vùng da cổ sậm màu, thậm chí chảy máu. Siêu âm thấy rõ khối u tuyến giáp và phát hiện ung thư rõ ràng. Người bệnh ung thư tuyến giáp khi phát hiện không quá lo lắng vì có thể điều trị khỏi.
Với cường giáp, tuyến giáp hoạt động quá mức do sản xuất nhiều hormone giáp hơn nhu cầu cơ thể và làm tăng nồng độ hormone giáp trong máu. Khi bị cường giáp, người bệnh thường có triệu chứng tim đập nhanh, hồi hộp, ngất xỉu,… Cường giáp được chữa khỏi bằng thuốc, i-ốt phóng xạ, phẫu thuật hoặc kết hợp các phương pháp này.
Tùy loại bướu cổ mà mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe khác nhau:
Có nhiều nguyên nhân gây ra bướu cổ; riêng việc thiếu i-ốt khiến 2,2 tỷ người trên toàn cầu bị bướu cổ, trong đó người lớn tuổi chiếm 60%-70%. (2)
Nếu thiếu hụt i-ốt ở mức độ vừa, tỷ lệ bị bướu cổ tăng lên 20%-30%. Nếu thiếu hụt i-ốt nặng, tỷ lệ bướu cổ tăng hơn 30%. Ngoài ra, có các nguyên nhân sau:
Bên cạnh đó, các yếu tố nguy cơ cao dẫn đến bướu cổ gồm:
Bướu cổ không có triệu chứng đến khi phát triển thành khối u trước cổ. Khối u thường không gây đau nhưng thường có các triệu chứng: khó nuốt, khó thở, ho khan, khàn giọng,…
Nếu bướu cổ có nhiều nốt (khối tròn nhỏ – bướu giáp đa nhân), bác sĩ sẽ chỉ định siêu âm các nốt và xác định có cần sinh thiết hay không để kiểm tra ung thư tuyến giáp.
Bướu giáp thường được vô tình phát hiện khi kiểm tra sức khỏe với các chỉ định siêu âm, chụp CT, MRI vùng cổ vì bệnh khác. Ngoài ra, nếu bướu cổ có kích thước lớn, hình thành khối u trước cổ sẽ dễ dàng nhận biết.
Khi chẩn đoán bệnh bướu cổ, bác sĩ tiếp tục khai thác các thông tin bệnh sử, triệu chứng, qua đó nếu nghi ngờ bướu ác tính sẽ chỉ định sinh thiết tế bào để khẳng định.
Điều trị bướu cổ nhằm giảm bớt sự chèn ép và phục hồi chức năng tuyến giáp.
Với bướu cổ lành tính, người bệnh không cần điều trị nhưng phải theo dõi định kỳ với bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường để được kiểm soát tình trạng bệnh. Đến khi kích thước bướu lớn gây khó nuốt, khó thở,… bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc, phẫu thuật hoặc uống i-ốt phóng xạ.
Với bướu cổ ác tính, ngay sau khi phát hiện bệnh, cần điều trị ngay bằng phương pháp phẫu thuật. Sau phẫu thuật, bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc hoặc phối hợp với phương pháp i-ốt phóng xạ.
Với bướu cổ do cường giáp, ngay khi phát biện, bác sĩ sẽ điều trị bằng thuốc. Nếu cường giáp không ổn định, tùy vào tình trạng bệnh, bác sĩ tiếp tục chỉ định điều trị bằng i-ốt phóng xạ hoặc phẫu thuật hoặc kết hợp cả 3 phương pháp. Dùng thuốc chẹn beta cũng được khuyên dùng để giảm bớt các triệu chứng của cường giáp cũng như bảo vệ tim mạch.
Bướu cổ lành tính nếu tăng kích thước gây khó nuốt, khó thở,… cần can thiệp điều trị bằng thuốc, i-ốt phóng xạ hoặc phẫu thuật. Trong khi đó, với bướu cổ ác tính và bướu cổ do cường giáp, ngay khi phát hiện, cần điều trị ngay để ngăn chặn diễn tiến của bệnh.
Bướu cổ lành tính với nhân giáp nhỏ, không gây triệu chứng, người bệnh không cần điều trị, tuy vậy phải khám sức khỏe định kỳ với bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường để được theo dõi diễn tiến của bệnh. Từ đó, có phương án điều trị nếu bướu cổ gây khó nuốt, khó thở,…
Mổ (phẫu thuật) là lựa chọn điều trị dứt điểm trong các trường hợp bướu cổ gây tắc nghẽn đường thở, gây khó nuốt hoặc bướu lớn, ác tính, cường giáp. Phẫu thuật bao gồm cắt toàn bộ hoặc một phần tuyến giáp. Người bệnh nên được điều trị bằng thuốc kháng giáp như methimazole để thu gọn tuyến giáp trước khi phẫu thuật.
Chức năng thần kinh thanh quản và canxi nên được đánh giá trước và sau phẫu thuật. Sau khi cắt toàn bộ tuyến giáp, người bệnh nên bắt đầu thay thế hormone tuyến giáp.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Bệnh bướu cổ có nguy hiểm không là vấn đề được rất nhiều bệnh nhân thắc mắc. Và câu trả lời là bệnh hoàn toàn có thể được chữa khỏi nếu được điều trị đúng cách. Và để có một lộ trình điều trị phù hợp hãy gặp các chuyên gia chuyên khoa Nội tiết – Đái tháo đường để được tư vấn chi tiết.