Cường giáp có thể gặp ở mọi độ tuổi, từ trẻ sơ sinh, trẻ em cho đến người lớn tuổi. Riêng với trẻ em, bệnh có thể ảnh hưởng nặng nề đến quá trình phát triển thể chất, trí tuệ của trẻ. Dưới đây là những thông tin về bệnh cường giáp ở trẻ em và trẻ sơ sinh, được BS.CKI Đoàn Minh Yên Hà, khoa Nội tiết – Đái tháo đường, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM chia sẻ.
Cường giáp ở trẻ em là tình trạng tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone giáp (T3, T4). Bệnh gây ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tim mạch và thần kinh của trẻ. Có nhiều nguyên nhân gây bệnh, trong đó nguyên nhân thường gặp nhất là do bệnh Basedow.
Trẻ có thể mắc bệnh do nhiều nguyên nhân, có thể kể đến như:
Basedow là bệnh tự miễn, do hệ miễn dịch tạo ra kháng thể kích thích tuyến giáp hoạt động quá mức. Ở phụ nữ mang thai mắc bệnh này, các kháng thể trong cơ thể mẹ có thể truyền sang thai nhi qua nhau thai và gây cường giáp ở thai nhi.
Tuy nhiên bệnh Basedow ở trẻ sơ sinh thường chỉ thoáng qua. Ở trẻ em và thanh thiếu niên, bệnh này chiếm hơn 90% nguyên nhân gây bệnh. Bệnh không phổ biến ở trẻ dưới 5 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh tăng lên trong giai đoạn dậy thì, cao nhất ở trẻ từ 10 – 15 tuổi. (1)
Trẻ mắc suy giáp được điều trị bằng thuốc chứa hoạt chất levothyroxine, sử dụng quá liều có thể gây bệnh do thuốc. Tình trạng này thường gặp ở trẻ đang điều trị nội tiết nhưng không được theo dõi sát sao. Để phòng ngừa, ba mẹ cần cho trẻ sử dụng thuốc đúng liều lượng theo chỉ định và thăm khám định kỳ hoặc ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường.
Ở trẻ có bệnh nền Basedow, nếu tiêu thụ quá nhiều i-ốt, đặc biệt từ các nguồn như rong biển, muối i-ốt hoặc thuốc cản quang chứa i-ốt, tuyến giáp có thể bị kích thích hoạt động quá mức. Hiện tượng này là hiệu ứng Jod-Basedow.
Dù hiếm gặp, nhưng ở trẻ lớn có thể xuất hiện các nhân tuyến giáp tự sản sinh hormone không kiểm soát. Các nhân này có thể lành tính hoặc liên quan đến bệnh rối loạn tuyến giáp khác. Trẻ có biểu hiện lâm sàng tương tự như khi mắc Basedow nhưng không có lồi mắt.
Một số dạng viêm tuyến giáp (như viêm tuyến giáp bán cấp hoặc viêm tuyến giáp Hashimoto) ở giai đoạn đầu có thể gây cường giáp thoáng qua. Tình trạng này thường không kéo dài và sẽ chuyển sang suy giáp.
Một số dấu hiệu nhận biết bệnh ở thai nhi, trẻ em và trẻ sơ sinh gồm: (2)
Cường tuyến giáp ở thai nhi hiếm gặp, thường do mẹ bị nặng và truyền kháng thể kháng tuyến giáp cho con. Bệnh có thể được phát hiện sớm ở giai đoạn bào thai với các triệu chứng như nhịp tim nhanh kéo dài (>160 lần/phút – 170 lần/phút, kéo dài trên 10 phút, không liên quan sốt, thuốc hay cử động thai), bướu giáp thai nhi, tăng vận động thai, chậm phát triển trong tử cung (IUGR), dấu hiệu suy tim, phù thai trong trường hợp nặng, suy tim cung lượng cao…
Trẻ sau sinh có thể có các khiếm khuyết như dính khớp sọ sớm (các khớp sọ liền sớm), chậm phát triển thể chất và thấp bé. Tỷ lệ tử vong có thể lên tới 10% – 15%.
Ở trẻ sơ sinh, các triệu chứng của bệnh thường xuất hiện trong tháng đầu tiên sau sinh, gồm: khóc nhiều, bú khó, tăng huyết áp, nhịp tim nhanh, lồi mắt, bướu cổ, lồi trán và tật đầu nhỏ, chậm phát triển, nôn và tiêu chảy.
Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng có thể khác nhau tùy thuộc vào người mẹ có dùng thuốc kháng giáp trong thời kỳ mang thai hay không. Hầu hết trẻ sơ sinh bị bệnh do mẹ truyền kháng thể kháng giáp qua trong thai kỳ có thể hồi phục trong vòng 6 tháng, hiếm khi dài hơn.
Ở trẻ em và thanh thiếu niên, các triệu chứng của bệnh gồm: khó ngủ, tăng động, tâm trạng thất thường, giảm khả năng tập trung và thành tích học tập, đổ mồ hôi nhiều, hồi hộp, mệt mỏi, sụt cân bất thường, tiêu chảy, run tay… Có thể kèm bướu cổ lan tỏa, tăng huyết áp hoặc lồi mắt (với cường giáp do bệnh Basedow), rối loạn kinh nguyệt.
Trẻ cường giáp do viêm tuyến giáp bán cấp có thể có các triệu chứng đau cổ và sốt, tăng bạch cầu, tăng các chỉ số viêm trong máu.
Cường giáp ở trẻ em có thể nguy hiểm đến sức khỏe của trẻ. Tuy chỉ thoáng qua nhưng cường tuyến giáp sơ sinh có thể gây những biến chứng như:
Biến chứng cấp tính nguy hiểm của bệnh là nhiễm độc giáp, với các triệu chứng đột ngột như: sốt, vã mồ hôi, nôn, tiêu chảy, vàng da, kích động, mê sảng, liệt cơ, nhịp tim rất nhanh, rối loạn nhịp tim, suy tim, hôn mê… Nếu không được cấp cứu kịp thời, trẻ có thể tử vong.
Để chẩn đoán bệnh này ở trẻ em, bác sĩ cần kết hợp khám lâm sàng và cận lâm sàng như:
Bác sĩ sẽ khai thác kỹ các dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ mắc bệnh như: sụt cân bất thường, tim đập nhanh, tăng tiết mồ hôi, run tay, bứt rứt, giảm tập trung, rối loạn kinh nguyệt, bướu giáp mềm, không đau, bất thường ở mắt… Ngoài ra, cần khai thác tiền sử gia đình có mắc bệnh rối loạn tuyến giáp hay không.
Xét nghiệm về máu là chỉ định thường quy giúp chẩn đoán bệnh ở trẻ, gồm:
Ở trẻ sơ sinh bị cường giáp, các triệu chứng có thể không rõ ràng, do đó cần được theo dõi bằng cách đo nồng độ hormone FT4 trong huyết thanh và TSH từ 3 – 5 ngày tuổi và lặp lại lúc 10 – 14 ngày tuổi.
Siêu âm tuyến giáp giúp bác sĩ đánh giá kích thước, cấu trúc, mức độ tưới máu của tuyến này. Ở trẻ cường giáp do Basedow, siêu âm thường thấy tuyến giáp to lan tỏa, tăng sinh mạch máu.
Tùy vào nguyên nhân gây bệnh, mức độ rối loạn hormone giáp, tình trạng sức khỏe và tuổi của trẻ…, bác sĩ sẽ cân nhắc lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp cho từng trường hợp, hầu hết là điều trị nội khoa:
Thuốc kháng giáp tổng hợp được sử dụng chủ yếu là methimazole, vì hiệu quả cao và ít độc tính hơn propylthiouracil (PTU). Trẻ cần được theo dõi công thức máu, men gan và nồng độ hormone giáp định kỳ để điều chỉnh liều. Thời gian điều trị thường kéo dài 18 – 24 tháng.
Trẻ sơ sinh bị bệnh cũng được điều trị bằng methimazole. Một số trường hợp có thể được chỉ định dùng thuốc chẹn beta (như atenolol hoặc propranolol) để kiểm soát tăng huyết áp và nhịp tim nhanh.
Điều trị bệnh ở trẻ em không ưu tiên phẫu thuật, trừ khi trẻ dị ứng thuốc nặng. Bác sĩ có thể chỉ định phẫu thuật tuyến giáp trong các trường hợp: bướu giáp lớn chèn ép gây khó thở, khó nuốt; nghi ngờ ung thư tuyến giáp; không đáp ứng hoặc dị ứng thuốc kháng giáp tổng hợp. Sau phẫu thuật tuyến giáp, trẻ có thể cần điều trị suy giáp bằng hormone giáp tổng hợp suốt đời.
Để điều trị viêm tuyến giáp cấp tính, bác sĩ thường chỉ định sử dụng kháng sinh đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch, nhưng lý tưởng nhất là dựa trên độ nhạy cảm với kháng sinh thu được từ mẫu sinh thiết chọc hút kim nhỏ. Một số trường hợp có thể cần phẫu thuật, ví dụ để dẫn lưu áp xe hoặc sửa lỗ rò.
Viêm tuyến giáp bán cấp có thể tự khỏi, có thể sử dụng thuốc kháng viêm không steroid để kiểm soát cơn đau. Thuốc kháng giáp không được chỉ định, nhưng có thể sử dụng thuốc chẹn beta nếu người bệnh có triệu chứng.
Trong quá trình chăm sóc trẻ bị bệnh tại nhà, ba mẹ và người chăm sóc cần lưu ý:
Ngoài ra, trẻ bị cường giáp thường lo âu, dễ cáu gắt, mất tập trung, do đó gia đình cần có sự động viên và thấu hiểu để đồng hành cùng trẻ trong quá trình điều trị. Phụ huynh nên sắp xếp thời gian học và nghỉ ngơi hợp lý cho trẻ, tránh gây áp lực học tập, đồng thời theo dõi sát biểu hiện tâm lý và hành vi của trẻ.
Phòng ngừa bệnh chủ yếu là phòng ngừa các yếu tố nguy cơ, đặc biệt là từ người mẹ mắc bệnh tuyến giáp trước/trong khi mang thai. Do đó, phụ nữ mang thai có tiền sử mắc bệnh Basedow hoặc đang điều trị cần được theo dõi sát sao trong thai kỳ, xét nghiệm chức năng tuyến giáp và khám thai định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ.
Trẻ sơ sinh có mẹ bị Basedow hoặc TRAb dương tính cần được xét nghiệm chức năng tuyến giáp trong vài ngày đầu sau sinh, kết hợp theo dõi các dấu hiệu lâm sàng (nhịp tim, tăng cân, bú kém, kích thích, mắt lồi nhẹ…) để phát hiện sớm cường tuyến giáp sơ sinh.
Với trẻ lớn hơn, cần giảm các yếu tố nguy cơ gây bệnh trong môi trường và dinh dưỡng, như:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, cường giáp ở trẻ em và trẻ sơ sinh có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng và lâu dài đến sự tăng trưởng về thể chất và trí tuệ của trẻ. Do đó, trẻ có mẹ đã/đang mắc bệnh hoặc người thân gần gũi mắc bệnh tuyến giáp cần được theo dõi, kiểm tra chức năng tuyến giáp theo hướng dẫn của bác sĩ.