HPV (Human Papilloma Virus) có hơn 200 tuýp khác nhau, trong đó có khoảng 12 chủng HPV nguy cơ cao: HPV 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58 và 59. Hai trong số này, HPV 16 và 18 là tác nhân cho hầu hết các loại ung thư liên quan đến HPV. Vậy HPV 16 và 18 gây ra những bệnh gì? Có chữa khỏi được không? Cần làm gì để chủ động phòng ngừa các bệnh lý nguy hiểm do 2 tác nhân này gây ra?
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi BS Nguyễn Như Điền – Quản lý Y khoa vùng 5 – miền Bắc, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC.
HPV 16 và 18 là hai chủng HPV nguy cao gây bệnh ung thư như: ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật, ung thư hậu môn, ung thư âm đạo, ung thư vòm họng,…
HPV (Human Papilloma Virus) là một loại virus có khả năng gây mụn cóc, u nhú và đặc biệt là bệnh ung thư ở người. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai nhiễm HPV đề có nguy cơ tiến triển thành ung thư bởi điều này còn phụ thuộc vào nhóm HPV mà người bệnh mắc phải.
Các nhà khoa học đã tìm thấy có hơn 200 tuýp HPV khác nhau được chia làm 2 phân nhóm: Nhóm nguy cơ thấp và nhóm nguy cơ cao:
HPV tuýp 16 là tuýp HPV phổ biến và nguy hiểm nhất trong hơn 200 tuýp HPV, chúng không biểu hiện các triệu chứng bệnh sớm mà tiến triển âm thầm, chỉ đến khi phát hiện thì bệnh đã ở giai đoạn muộn khiến quá trình điều trị bệnh gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, mức độ nguy hiểm của tuýp HPV này tuyệt đối không thể chủ quan. Khi nhiễm HPV type 16 nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người bệnh có nguy cơ mắc các bệnh ung thư nguy hiểm như: ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật, ung thư âm hộ, ung thư hầu họng…
Tuy nhiên, không phải ai nhiễm HPV tuýp 16 cũng phát triển thành ung thư, vì hệ miễn dịch của cơ thể thường có khả năng đào thải virus trong vòng 1-2 năm. Nhưng nếu người bệnh thuộc nhóm người bị suy giảm miễn dịch, người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, người nhiễm HPV có nguy cơ thấp nhưng không tự đào thải (mụn cóc sinh dục, sùi mào gà….), nhiễm trùng kéo dài thì có nguy cơ tiến triển thành ung thư cao hơn.
Mặt khác, các chuyên gia nhấn mạnh, HPV type 16 không chỉ nguy hiểm ở nữ giới mà tỷ lệ nam giới mắc HPV type 16 cũng đang tăng nhanh khi nghiên cứu cho thấy độ lưu hành HPV ở nam giới (khoảng 91%) cao hơn nữ giới (khoảng 85%) ở mọi lứa tuổi. Đồng thời, tỷ lệ thải loại HPV ở nam giới thấp hơn nữ giới đến 26% khiến nam giới có nguy cơ sống chung với HPV suốt đời nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Tương tự HPV tuýp 16, HPV 18 cũng thuộc tuýp virus nguy hiểm với khả năng phát triển nhanh chóng sau khi xâm nhập vào cơ thể, đặc biệt những trường hợp quan hệ tình dục không lành mạnh, quan hệ tình dục sớm, có nhiều bạn tình, không sử dụng các biện pháp bảo vệ… là yếu tố góp phần gia tăng tỷ lệ lây nhiễm tuýp HPV này.
HPV 18 lây lan chủ yếu qua đường tình dục và có khả năng gây ra những thay đổi nghiêm trọng trong cấu trúc tế bào trong cơ thể. Từ đó dẫn đến sự phát triển của các khối u ác tính, không chỉ ở cổ tử cung mà còn ở hậu môn, âm đạo và dương vật.
HPV tuýp 18 thường không gây ra triệu chứng rõ rệt ngay từ đầu, điều này khiến cho việc phát hiện bệnh sớm gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát và điều trị kịp thời, người bệnh có nguy cơ bị nhiễm trùng kéo dài dẫn đến ung thư nghiêm trọng. Do đó, việc tiêm vắc xin HPV đầy đủ, quan hệ tình dục an toàn, kiểm tra sức khỏe định kỳ đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa nhiễm HPV tuýp 18 và các biến chứng có liên quan.
HPV 16 và 18 đều là hai loại virus HPV có nguy cơ cao gây ung thư nhưng chúng khác nhau về tần suất gây bệnh. Theo nghiên cứu của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ), HPV tuýp 16 là loại phổ biến nhất, chiếm khoảng 50% các trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới. (1)
Trong khi đó, HPV tuýp 18 chiếm khoảng 16% các ca ung thư cổ tử cung. Có thể thấy mặc dù cả hai đều rất nguy hiểm, nhưng HPV tuýp 16 có tỷ lệ nhiễm cao hơn và là tác nhân hàng đầu gây ra hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung ở nữ giới.
Ngoài ra, HPV tuýp 18 còn có xu hướng gây ra những biến đổi tế bào nhanh hơn và mạnh hơn so với HPV tuýp 16. Điều này có nghĩa là các tế bào trong cơ thể nếu bị nhiễm HPV tuýp 18 có nguy cơ tiến triển triển thành ung thư trong thời gian ngắn hơn. Trong khi đó, HPV tuýp 16 có thể gây ra những thay đổi từ từ, âm thầm hơn, đến khi phát hiện thì bệnh đã ở giai đoạn cuối khiến cho quá trình điều trị gặp rất nhiều khó khăn.
Bệnh ung thư cổ tử cung là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới, hơn 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn cầu có liên quan đến HPV 16 và 18. Cả hai tuýp virus này đều thuộc nhóm HPV nguy cơ cao, có khả năng gây ra những biến đổi bất thường trong tế bào của cổ tử cung, dẫn đến sự phát triển của các khối u ác tính. (1)
Khi nhiễm HPV 16 và 18, virus có thể tồn tại trong cơ thể dưới dạng nhiễm trùng không có triệu chứng trong nhiều năm. Tuy nhiên, nếu không được phát hiện và loại bỏ kịp thời, virus có thể gây ra những biến đổi về mặt di truyền trong tế bào, làm cho các tế bào này phát triển không kiểm soát, dẫn đến hình thành khối u.
HPV tuýp 16 được biết đến là nguyên nhân gây ra khoảng 50% các ca ung thư cổ tử cung, trong khi tuýp 18 chiếm khoảng 16%. Một khi ung thư cổ tử cung phát triển, người bệnh có thể xuất hiện các triệu chứng như chảy máu âm đạo bất thường (ngoài chu kỳ kinh nguyệt hoặc sau quan hệ tình dục), đau vùng chậu, tiết dịch âm đạo bất thường. Ở giai đoạn cuối, ung thư cổ tử cung có thể lan sang các cơ quan lân cận như bàng quang, trực tràng và thậm chí đến các bộ phận khác của cơ thể.
Ung thư hậu môn là một loại ung thư không phổ biến nhưng có liên quan chặt chẽ đến HPV, đặc biệt là HPV 16 và 18. Trong đó, HPV tuýp 16 là nguyên nhân chính gây khoảng 70-90% các trường hợp ung thư hậu môn trên toàn thế giới. Ước tính có khoảng 48.000 trường hợp mắc ung thư hậu môn mới được chẩn đoán mỗi năm trên toàn thế giới, với tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm tuổi từ 58 đến 64 tuổi. (3)
Một số nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ mắc ung thư hậu môn phổ biến hơn ở nam giới trước 35 tuổi và nữ giới sau 50 tuổi. Theo một số thống kê, tỷ lệ mắc ung thư hậu môn ở nam giới độc thân cao gấp 6 lần so với nam giới đã lập gia đình. Khoảng 20% trường hợp mắc ung thư hậu môn mà không có bất kỳ triệu chứng nào. Các trường hợp còn lại có thể xuất hiện các triệu chứng tương tự như bệnh trĩ, hội chứng ruột kích thích và nhiều bệnh đường tiêu hóa khác
HPV 16 và 18 lây truyền chủ yếu qua đường tình dục bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và miệng. Khi virus xâm nhập vào các tế bào biểu mô ở dương vật, đặc biệt là ở vùng quy đầu và bao quy đầu khiến người bệnh xuất hiện tình trạng viêm loét bao quy đầu, khối u dọc dương vật cứng chắc và to dần, tiết dịch bất thường, chảy máu hoặc đau khi đi tiểu.
Bệnh ung thư dương vật nếu phát hiện và điều trị đúng phương pháp ở giai đoạn sớm, các bác sĩ Nam khoa thường sẽ chỉ định người bệnh cắt bỏ phần ung thư hoặc cắt bán phần dương vật, nạo vét hạch bẹn hai bên, kết hợp hóa xạ trị điều trị bệnh.
Tuy nhiên, nếu ở giai đoạn muộn, các tế bào ung thư ác tính tách ra từ khối u nguyên phát và xâm nhập đến mô lân cận hoặc lan rộng đến các bộ phận sinh dục ngoài, di căn hạch bẹn, hạch ổ bụng… khiến bác sĩ bắt buộc phải chỉ định cắt bỏ toàn bộ dương vật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng sinh sản cũng như chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Ngoài ra, tỷ lệ mắc ung thư dương vật được cho là cao hơn ở những người không cắt bao quy đầu, có thói quen vệ sinh kém, hoặc có đời sống tình dục không an toàn, nhiều bạn tình, bởi đây đều là các yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm HPV.
Hiện nay, nguyên nhân chính xác gây ra ung thư âm đạo vẫn chưa được các nhà nghiên cứu xác định rõ ràng. Tuy nhiên, tương tự như ung thư cổ tử cung, hầu hết các trường hợp chẩn đoán mắc ung thư âm đạo có liên quan đến nhiễm HPV kéo dài, đặc biệt là các tuýp HPV nguy cơ cao. Năm 2022, ước tính có hơn 100 trường hợp là nữ giới được chẩn đoán ung thư âm đạo, với độ tuổi trung bình khi chẩn đoán là 67 tuổi.
Ung thư âm đạo phát triển khi các tế bào bình thường trong cơ thể mất khả năng kiểm soát sự phân chia, dẫn đến sự tăng sinh bất thường. Thay vì phân chia và chết đi theo chu kỳ vốn có thì các tế bào ung thư lại tăng sinh không kiểm soát, đồng thời cũng không bị tiêu diệt, từ đó hình thành nên khối u trong cơ thể.
Bệnh ở giai đoạn đầu thường không có triệu chứng điển hình khiến việc chẩn đoán sớm trở nên khó khăn; triệu chứng phổ biến nhất cho thấy bệnh tiến triển là chảy máu âm đạo bất thường. Ở giai đoạn cuối những tế bào này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng sinh sản nữ và lan rộng đến các cơ quan xa như phổi, gan, và xương. sẽ lan rộng và di căn đến các bộ phận khác trong cơ thể. Do đó, việc thăm khám phụ khoa định kỳ là rất quan trọng để phát hiện sớm và điều trị kịp thời, tránh để bệnh tiến triển đến giai đoạn muộn.
Năm 2017, một nghiên cứu về HPV công bố trên tạp chí Ung thư Quốc tế (International Journal of Cancer) đã ghi nhận HPV là tác nhân gây ra 38.000 trường hợp ung thư vùng đầu cổ mỗi năm, trong đó 21.000 trường hợp là ung thư vòm họng. Các tuýp HPV được xác nhận liên quan đến ung thư vòm họng là HPV 16 và 18.
Đường lây nhiễm phổ biến nhất của HPV là qua quan hệ tình dục kể cả khi quan hệ qua âm đạo, hậu môn hay bằng miệng. Trong đó, quan hệ tình dục bằng miệng dễ khiến lớp niêm mạc miệng bị tổn thương, tạo điều kiện cho virus thâm nhập vào vòm họng. Khi HPV xâm nhập, nó có thể gây ra những biến đổi tế bào bất thường, dẫn đến sự phát triển của các khối u ác tính ở amidan, lưỡi gốc cũng như các khu vực khác trong hầu họng.
Người bệnh có thể xuất hiện các triệu chứng như đau họng kéo dài, khó nuốt, khàn tiếng, đau tai, xuất hiện các khối u ở cổ. Tuy nhiên, bệnh thường không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu, dẫn đến việc phát hiện bệnh đã ở giai đoạn muộn khiến quá trình điều trị gặp nhiều khó khăn, thậm chí là tử vong.
Kết quả xét nghiệm dương tính với HPV 16 và 18 có nguy hiểm không? Câu trả lời là CÓ! Khi nhiễm HPV 16 và 18, virus có thể tồn tại trong các tế bào biểu mô mà không gây ra triệu chứng đặc trưng trong nhiều năm. Tuy nhiên, nếu nhiễm trùng kéo dài và không được phát hiện hoặc điều trị kịp thời, các tế bào có thể bị biến đổi, dẫn đến sự phát triển của các tổn thương tiền ung thư và cuối cùng là ung thư.
Tuy nhiên, việc dương tính với HPV 16 hoặc 18 không đồng nghĩa với việc chắc chắn sẽ phát triển ung thư, vì nhiều trường hợp người bệnh có thể tự đào thải virus ra khỏi cơ thể sau 1-2 năm. Điều quan trọng là người bệnh cần phải thực hiện các xét nghiệm tầm soát định kỳ như xét nghiệm HPV, Pap smear,… để theo dõi và phát hiện sớm các dấu hiệu của sự biến đổi tế bào, từ đó ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng, bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và toàn xã hội.
HPV 16 và 18 lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc tình dục. Cụ thể, HPV có thể lây nhiễm qua bất kỳ hình thức quan hệ tình dục nào bao gồm quan hệ tình dục qua âm đạo, hậu môn và miệng. Việc tiếp xúc trực tiếp giữa da và niêm mạc trong quá trình quan hệ tình dục là con đường chính để HPV xâm nhập vào cơ thể.
Bên cạnh đó, mặc dù ít phổ biến hơn, HPV cũng có thể lây truyền dọc từ mẹ sang con, lây qua vật dụng cá nhân như đồ lót, quần áo, khăn mặt, khăn tắm hoặc dụng cụ vệ sinh cá nhân, dụng cụ y tế,… đã bị nhiễm HPV từ người bệnh cũng có nguy cơ nhiễm HPV và tiến triển thành bệnh.
Phương pháp xét nghiệm HPV bắt đầu phát triển vào cuối thế kỷ 20 khi các nhà khoa học tìm thấy mối liên hệ rõ ràng giữa HPV và ung thư cổ tử cung. Năm 1983, nhà khoa học người Đức Harald zur Hausen đã phát hiện ra các tuýp HPV 16 và 18 có liên quan trực tiếp đến ung thư cổ tử cung. Điều này đã mở đường cho việc phát triển các xét nghiệm nhằm mục đích phát hiện sự hiện diện của HPV trong cơ thể.
Đến những năm 1990, các phương pháp xét nghiệm HPV dựa trên kỹ thuật phân tích DNA bắt đầu xuất hiện và trở thành một công cụ quan trọng trong việc sàng lọc ung thư cổ tử cung. Năm 1999, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chính thức phê duyệt xét nghiệm HPV đầu tiên để sử dụng trong lâm sàng. Từ đó, xét nghiệm này ngày càng được cải tiến và trở thành một phần không thể thiếu trong chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
Chính vì vậy, đối với phụ nữ trên 21 tuổi, các chuyên gia y tế đều khuyến cáo nên thực hiện xét nghiệm HPV kết hợp cùng xét nghiệm Pap để phát hiện sớm các tế bào bất thường trong cơ thể và tiến hành điều trị loại bỏ trước khi chúng phân chia tế bào không kiểm soát, dẫn đến sự tăng trưởng của các khối u.
Xét nghiệm PAP (còn gọi là xét nghiệm Pap smear) là phương pháp được phát triển vào những năm 1940 bởi bác sĩ người Hy Lạp George Papanicolaou nhằm phát hiện sớm các biến đổi bất thường có nguy cơ tiến triển thành ung thư trong tế bào cổ tử cung do HPV 16 và 18 gây ra. Xét nghiệm Pap đã trở thành tiêu chuẩn trong sàng lọc ung thư cổ tử cung và được thường được kết hợp với xét nghiệm HPV hiện đại để tăng độ chính xác, giúp bác sĩ phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư và ngăn chặn bệnh phát triển.
Mặc dù HPV là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại ung thư liên quan đến sinh dục ở cả nam và nữ, tuy nhiên các phương pháp xét nghiệm HPV 16 và 18 ở nam giới vẫn chưa có như đối với nữ giới bởi vẫn đang trong quá trình nguyên cứu và thử nghiệm.
Mặc dù có nhiều phương pháp khác nhau được đề xuất để xét nghiệm HPV ở nam, thế nhưng chưa có một phương pháp nào được khuyến cáo hay chính thức được đưa vào sử dụng rộng rãi cho nam giới để tầm soát bệnh. Hiện nay, CDC Hoa Kỳ không khuyến cáo tầm soát đối với ung thư hậu môn, dương vật hoặc ung thư vòm họng ở nam giới.
Hiện tại chưa có cách điều trị đặc hiệu nếu nhiễm HPV nói chung cũng như HPV 16 và 18 nói riêng. Tuy nhiên, không phải ai nhiễm HPV type 16 và 18 cũng sẽ có nguy cơ tiến triển thành ung thư bởi HPV có thể tự đào thải ra khỏi cơ thể sau khoảng 1-2 năm. Các yếu tố như hệ miễn dịch, tiền sử gia đình, tuổi tác, lối sống,… cũng góp phần tăng khả năng mắc bệnh.
Chính vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo cách tốt nhất là chủ động phòng HPV tuýp 16 và 18 bằng cách tiêm phòng vắc xin HPV, duy trì lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý, chú ý vệ sinh cơ thể và bộ phận sinh dục, quan hệ tình dục an toàn, kiểm tra sức khỏe định kỳ,… để bảo vệ sức khỏe của chính bản thân và gia đình.
Ở hầu hết mọi trường hợp, người nhiễm HPV có thể được đào thải ra khỏi cơ thể trong vòng 1-2 năm. Tuy nhiên, nếu người bệnh thuộc nhóm người bị suy giảm miễn dịch, người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, người nhiễm HPV có nguy cơ thấp nhưng không tự đào thải (mụn cóc sinh dục, sùi mào gà….), nhiễm trùng HPV kéo dài sẽ có nguy cơ tiến triển thành ung thư cao hơn.
Theo CDC Hoa Kỳ, tiêm vắc xin là biện pháp quan trọng hàng đầu trong việc phòng ngừa nhiễm HPV, đặc biệt là các chủng nguy cơ cao như HPV 16 và 18 – liên quan mật thiết đến ung thư cổ tử cung, âm đạo, hậu môn, và các loại ung thư khác.
Thống kê cho thấy nhờ triển khai tiêm vắc xin HPV đồng loạt mà tỷ lệ mắc các bệnh ung thư và mụn cóc sinh dục do HPV đã giảm đến 88% bé gái và 81% ở phụ nữ trưởng thành gây ra. Riêng nam giới, hiện vẫn chưa có các biện pháp tầm soát HPV nên việc tiêm vắc xin HPV đầy đủ và đúng lịch là rất cần thiết cho cả hai giới.
Vắc xin Gardasil (Mỹ) và Gardasil 9 (Mỹ) đều có khả năng phòng ngừa hiệu quả hơn 90% phòng các bệnh ung thư liên quan đến HPV. Đặc biệt, vắc xin Gardasil 9 là loại vắc xin thế hệ mới được chỉ định tiêm cho nam và nữ giới từ 9-45 tuổi, trong đó 9-14 là độ “tuổi vàng” được khuyến cáo nên tiêm vắc xin sớm để giúp vắc xin phát huy hiệu quả bảo vệ tối ưu nhất.
Tại Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC, Khách hàng có thể dễ dàng nhận được sự tư vấn tiêm chủng, đăng ký tiêm HPV, đăng ký gói vắc xin hoặc tham gia các chương trình ưu đãi thông qua các cách sau:
Chuyên gia nhấn mạnh việc khám sức khỏe định kỳ đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện sớm các tổn thương do HPV nguy cơ cao gây ra. Thông qua các xét nghiệm tầm soát như xét nghiệm Pap và HPV, các bác sĩ có thể phát hiện sự hiện diện của virus trước khi nó gây ra những biến đổi tế bào nguy hiểm.
Việc phát hiện sớm giúp bác sĩ can thiệp kịp thời, ngăn ngừa sự tiến triển của ung thư, đồng thời cùng trao đổi với người bệnh về các phương pháp điều trị hoặc phòng ngừa hiệu quả hơn. Đặc biệt, phụ nữ nên duy trì lịch khám sức khỏe phụ khoa định kỳ để bảo vệ sức khỏe lâu dài cũng như nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phòng ngừa các bệnh lý liên quan đến HPV trong thời đại hiện nay.
Quan hệ tình dục an toàn và lành mạnh là biện pháp hiệu quả giúp giảm nguy cơ nhiễm HPV. Đặc biệt là sử dụng bao cao su trong suốt thời gian quan hệ tình dục, kể cả khi quan hệ bằng miệng. Hạn chế số lượng bạn tình, chung thủy một vợ/ một chồng và duy trì quan hệ ổn định cũng góp phần giảm nguy cơ mắc các bệnh do HPV gây ra.
Chế độ ăn uống lành mạnh, khoa học, giàu chất chống oxy hóa và vitamin, đặc biệt là vitamin A, C, E, có thể hỗ trợ hệ miễn dịch trong việc chống lại các nhiễm trùng, đặc biệt là giảm nguy cơ nhiễm HPV 16 và 18. Bên cạnh chế độ ăn uống lành mạnh thì việc tập luyện thể thao thường xuyên cũng góp phần duy trì sức khỏe tổng thể, tăng sức đề kháng giúp cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh cũng như giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh ung thư do HPV gây ra.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào về vấn đề HPV 16 và 18, quý Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với VNVC thông qua hotline 028.7102.6595 hoặc inbox qua fanpage facebook VNVC – Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em & Người lớn hoặc đến ngay các trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc để được nhân viên chăm sóc Khách hàng hướng dẫn chi tiết, được bác sĩ thăm khám sàng lọc, tư vấn sức khỏe và chỉ định tiêm ngừa phù hợp. Tra cứu trung tâm tiêm chủng VNVC gần nhất tại đây.