Anh Huệ, 52 tuổi, phát hiện hẹp van tim nặng từ lâu nhưng chỉ điều trị nội khoa, nay bệnh biến chứng gây giãn các buồng tim, khiến tim phình to gấp đôi bình thường.
Anh Huệ được chẩn đoán hẹp van hai lá nặng, có chỉ định mổ từ 17 năm trước. Một phần do chưa đủ kinh phí, mặt khác do bị suy thận mạn, nguy cơ biến chứng sau mổ cao nên anh từ chối phẫu thuật. Bác sĩ kê toa thuốc, dặn anh tái khám định kỳ. Người nhà kể thỉnh thoảng anh mệt, khó thở nhưng nghỉ ngơi một lúc thì triệu chứng giảm nên không nghĩ bệnh tiến triển nặng.
Một tháng trước anh Huệ mệt nhiều hơn, thường xuyên phải ngủ ngồi vì khó thở tăng dần. Đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM khám, anh được ThS.BS.CKII Huỳnh Hoàng Khang, Trưởng khoa Ngoại tim mạch, Trung tâm Tim mạch Can thiệp, chẩn đoán hẹp khít van hai lá, hẹp và hở van động mạch chủ, hở van ba lá nặng.
“Đây là hệ quả tất yếu do bệnh nhân không điều trị triệt để tình trạng hẹp van hai lá ngay từ đầu”, bác sĩ Khang khẳng định, thêm rằng không chỉ làm tổn thương các lá van khác, bệnh còn biến chứng dẫn tới tăng áp phổi, hai buồng thất và buồng nhĩ giãn lớn, khiến tim to gấp đôi bình thường. Chức năng co bóp tim cũng giảm nặng (EF còn 35%) kèm suy thận giai đoạn 3B.
Hẹp van hai lá là tình trạng bất thường của van tim hai lá khi không thể mở hoàn toàn để máu đổ từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái. Điều này làm cho một lượng máu ứ lại tâm nhĩ trái, tăng áp lực và khiến máu ứ tại phổi gây mệt, khó thở. Nếu không phát hiện và điều trị sớm, bệnh sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, đe dọa tính mạng người bệnh như tăng áp phổi, suy tim, rung nhĩ, đột quỵ…
Trường hợp anh Huệ, nếu được phẫu thuật từ 17 năm trước thì chỉ cần sửa hoặc thay van hai lá, các van tim còn lại không bị hư hỏng. Nay bệnh tiến triển, người bệnh phải trải qua ca mổ phức tạp để sửa chữa và thay các lá van. Theo bác sĩ Khang, nếu để một thời gian nữa không chữa trị, chức năng co bóp tim kém đi sẽ gây suy tim toàn bộ. Đồng thời, tăng áp phổi nặng lên gây phù phổi, bệnh nhân không thể thở. Lúc đó không thể can thiệp ngoại khoa.
Bác sĩ Khang cùng ê kíp tiến hành phẫu thuật thay van hai lá và van động mạch chủ, sửa van ba lá cho người bệnh. Anh Huệ bị suy thận giai đoạn 3B, suốt quá trình mổ phải chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể, khiến sau mổ bệnh nhân gặp tình trạng suy tim, suy thận cấp, nguy cơ phải chạy thận nhân tạo suốt đời. Để giảm rủi ro, các bác sĩ thực hiện hồi sức tích cực, đặt bóng đối xung, lọc thận liên tục. Sau hai ngày chức năng tim thận ổn định, anh được ngưng bóng đối xung, ngưng chạy thận, chuyển từ phòng ICU về nội trú.
Sức khỏe anh Huệ cải thiện dần, giảm hẳn khó thở và không còn ngủ ngồi. Chức năng co bóp tim tăng lên 56% tương đương người bình thường. Các buồng tim được kỳ vọng thu nhỏ dần dần. Anh xuất viện 10 ngày sau đó trong trạng thái khỏe mạnh, không phải chạy thận định kỳ.
Hẹp van hai lá ở những giai đoạn đầu không có dấu hiệu rõ rệt. Bệnh tiến triển chậm trong nhiều năm, người bệnh thường chỉ tình cờ phát hiện khi siêu âm tim. Khi bệnh diễn tiến nặng dần sẽ biểu hiện bằng triệu chứng khó thở khi gắng sức hoặc khó thở kịch phát về đêm; mệt mỏi, dễ cảm thấy đuối sức khi hoạt động gắng sức như chạy bộ, leo cầu thang; phù chân; hồi hộp, tim đập nhanh; chóng mặt hoặc ngất; ho ra máu; đau và khó chịu vùng ngực.
Sau khi thay van mới, người bệnh cần theo dõi tái khám định kỳ, theo dõi hoạt động của van nhân tạo. Ngoài ra, bên cạnh các phương pháp điều trị nội và ngoại khoa, cần lựa chọn thêm các giải pháp hỗ trợ tăng cường sức khỏe trái tim để bảo vệ van tốt hơn.
Nên xây dựng chế độ sinh hoạt lành mạnh bằng cách hạn chế thức ăn, nước uống nhiều muối, duy trì cân nặng, cố gắng giảm cân nếu bị béo phì, không uống rượu hay hút thuốc lá, hạn chế tiêu thụ cafein vì làm tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim, giảm các hoạt động gắng sức, tập thể dục đều đặn. Uống thuốc và tái khám định kỳ theo chỉ định của bác sĩ. Phụ nữ ở lứa tuổi sinh sản nếu mắc bệnh hẹp van hai lá nên tư vấn bác sĩ trước khi có thai, vì thai kỳ sẽ làm tăng mức độ nguy hiểm của bệnh tim mạch sẵn có.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH