Chị Hằng, 44 tuổi, nghĩ tình trạng tăng huyết áp thai kỳ sẽ tự hết sau sinh nên không theo dõi, gần đây bệnh biến chứng gây tổn thương mắt, suy thận.
Tám năm trước, khi mang thai con thứ ba, chị Hằng được chẩn đoán tăng huyết áp thai kỳ. Bác sĩ theo dõi sát sức khỏe hai mẹ con, kê thuốc kiểm soát huyết áp. Chị sinh con an toàn ở tuần thai 39, không gặp biến chứng tiền sản giật, thai nhi chậm phát triển hay sinh non.
Sau sinh chị Hằng thấy sức khỏe ổn định nên không đi khám tim mạch, cũng không thường xuyên kiểm tra huyết áp tại nhà. Cuối tháng 9/2025, chị hay bị đau đầu, xây xẩm, người xanh xao. Chị tự mua thuốc giảm đau về uống, sau hai ngày triệu chứng không cải thiện. Đo huyết áp tại nhà, chỉ số lên tới 190/110 mmHg, chị đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM khám.
BS.CKI Hoàng Thị Bình, khoa Nội tim mạch, Trung tâm Tim mạch, cho biết bệnh nhân nhập viện trong cơn tăng huyết áp không kiểm soát, xét nghiệm máu ghi nhận suy thận mạn giai đoạn 4, thiếu máu liên quan đến bệnh thận. Soi đáy mắt phát hiện bệnh lý võng mạc do tăng huyết áp độ II. “Điều này chứng tỏ chị Hằng bị bệnh lý huyết áp thời gian dài mà không được chẩn đoán và điều trị đúng cách, dẫn tới biến chứng về mắt và thận”, bác sĩ Bình nhận định.
Theo ThS.BS.CKII Huỳnh Thanh Kiều, Trưởng khoa Nội tim mạch 1, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, tăng huyết áp thai kỳ xảy ra ở khoảng 5-10% phụ nữ mang thai sau tuần 20 của thai kỳ, thường tự hết trong vòng 6 tuần sau sinh nhưng tiềm ẩn nguy cơ bệnh mạn tính sau này.
Tuy chị Hằng được theo dõi, kiểm soát huyết áp tốt trong thai kỳ, sau sinh không gặp bất thường sức khỏe nhưng cần đi tái khám theo hướng dẫn của bác sĩ. Chị chủ quan bỏ qua bước này, tạo tiền đề cho bệnh âm thầm phát triển trong nhiều năm, đến khi làm tổn thương các cơ quan quan trọng mới biểu hiện triệu chứng.
Nếu để một thời gian nữa không điều trị, bệnh sẽ biến chứng nghiêm trọng hơn gây suy tim, nhồi máu cơ tim, đột quỵ nhồi máu não, phình và bóc tách động mạch chủ, bệnh mạch máu ngoại biên, suy thận mạn giai đoạn cuối phải lọc máu định kỳ,…
Các bác sĩ nội tim mạch và nội thận hội chẩn, nhận thấy tuy bệnh nhân suy thận độ 4 nhưng tay chân không phù, không tăng kali máu, tiểu được nên chưa cần chạy thận. Bác sĩ lên phác đồ điều trị bảo tồn với thuốc kiểm soát huyết áp và rối loạn mỡ máu, thuốc tạo máu, thuốc lợi tiểu. Sau hai ngày huyết áp chị Hằng hạ xuống 120/80 mmHg, hết đau đầu, chóng mặt. Chị xuất viện sau 6 ngày, tiếp tục uống thuốc và tái khám theo lịch hẹn.
Bác sĩ Kiều lý giải, huyết áp gồm hai trị số là huyết áp tâm thu (áp lực máu trong lòng mạch lúc tim co bóp) và huyết áp tâm trương (áp lực máu trong lòng mạch lúc tim thư giãn). Hệ mạch máu trong cơ thể giống như các ống dẫn, đưa máu đến các cơ quan. Hệ thống ống dẫn này nếu chịu một áp lực cao lâu ngày sẽ bị phình giãn (thành ống yếu đi, dễ bị rách hay vỡ), hoặc cứng lại làm mất tính đàn hồi mềm mại, hoặc lớp bên trong bị tổn thương và tích tụ các mảng xơ vữa gây hẹp, tắc.
Tất cả các mạch máu lớn (động mạch chủ, động mạch cảnh, động mạch đùi…) và mạch máu nhỏ (mạch máu ở đáy mắt, cầu thận, não…) toàn thân đều bị ảnh hưởng nếu chỉ số huyết áp không được kiểm soát.
Khi bị tăng chỉ số huyết áp, rất nhiều bệnh nhân tự ý bỏ thuốc điều trị hoặc không tái khám vì thấy sức khỏe ổn định và không có triệu chứng bất thường. Đến khi có biến chứng, di chứng hoặc tử vong, bác sĩ mới phát hiện căn nguyên là do tăng huyết áp.
Các nghiên cứu cho thấy khi kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu thì giảm được 30% nguy cơ đột quỵ, 25% nhồi máu cơ tim và 23% bệnh thận mạn. Vì thế, cần ngăn ngừa và phát hiện sớm bằng cách đo tầm soát huyết áp mỗi 6 tháng – 1 năm/lần. Nếu đã được chẩn đoán mắc bệnh, người bệnh cần uống thuốc đều đặn, theo dõi mức huyết áp khi điều trị. Mức huyết áp mục tiêu thông thường là ≤ 130/80 mmHg, trừ một số trường hợp đặc biệt có mức mục tiêu khác sẽ được bác sĩ thông báo.
Làm các kiểm tra cận lâm sàng gồm tổng phân tích nước tiểu, tỷ lệ microalbumin/creatinin niệu, đo điện tim, siêu âm tim, xét nghiệm chức năng thận, đường máu, cholesterol máu, chụp võng mạc, siêu âm động mạch cảnh và đo ABI tối thiểu 1 năm/lần. Duy trì chế độ sinh hoạt lành mạnh như tập thể dục đều đặn, không hút thuốc lá, hạn chế rượu bia, kiểm soát cân nặng, ăn uống hợp lý, giảm căng thẳng, ngủ đủ giấc.
*Tên bệnh nhân đã được thay đổi
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH