Hàng năm, có hàng trăm ca bị đứt dây chằng, tổn thương gân do tai nạn, tập luyện quá sức. Để cải thiện khả năng vận động, nhiều người bệnh được ghép gân đồng loại. Vậy ghép gân đồng loại là gì? Quy trình thực hiện như thế nào?
Ghép gân đồng loại là dùng gân khỏe mạnh của người hiến tặng để thay thế gân bị tổn thương của người bệnh. Đây là kỹ thuật ghép gân phổ biến bên cạnh ghép gân tự thân. Nguồn gân hiến tặng được lấy từ người bị tai nạn hoặc chết não, chủ yếu là gân bánh chè, gân chày sau, gân Achilles…
Vào thời kỳ Phục hưng, có nhiều ca điều trị chấn thương gân thất bại do nguồn gân ghép không tương thích và quy trình vô trùng không đảm bảo. Đến năm 1910, bác sĩ K. Biesalski đã thực hiện ca ghép gân thành công đầu tiên, mở đường cho nền y học hiện đại.
Tiếp nối thành tựu đó, 2 bác sĩ E. Lexer và L. Mayer cũng thực hiện thành công 2 ca ghép gân khác, lần lượt vào năm 1912 và 1916. Cả 3 bác sĩ đều công bố và mô tả chi tiết các ca cấy ghép gân đã thực hiện, đồng thời khẳng định phải áp dụng đúng nguyên tắc giải phẫu, sinh lý và kỹ thuật trong mọi ca ghép gân. (1)
Từ năm 1918-1950, kỹ thuật ghép gân đã được thực hiện, nghiên cứu và cải tiến không ngừng bởi hàng loạt bác sĩ tên tuổi như St. Bunnell, Claude Verdan, H. Kleinert, A. Bassett và RE Caroll… Trong đó, bác sĩ H. Kleinert là người đi đầu trong kỹ thuật ghép gân vào năm 1967.
Ghép gân đồng loại nói riêng và ghép gân nói chung được ứng dụng để tái tạo dây chằng, từ đó khôi phục đặc điểm giải phẫu của khớp. Bác sĩ dùng gân của người hiến tặng để gắn kết, bảo tồn mạch máu ở phần gân bị rách, đứt của người bệnh. Sau phẫu thuật ghép gân, mảnh gân được ghép sẽ trở thành một phần của hệ thống dây chằng tự nhiên trong cơ thể.
Ngoài ghép gân bị đứt, kỹ thuật ghép gân đồng loại còn ứng dụng trong trường hợp bị tổn thương gân nhưng không thể hồi phục chức năng bình thường. Theo đó, phần gân tổn thương sẽ được thay thế bằng gân lành, giải phóng người bệnh khỏi cơn đau nhức trước đó.
Mục đích chính của phẫu thuật ghép gân là giúp người bị chấn thương dây chằng khôi phục chức năng vận động, sinh hoạt như bình thường. Với ca ghép gân thành công, người bệnh phục hồi phần lớn hoặc hoàn toàn khả năng cử động ở các chi, thậm chí có thể chơi thể thao trở lại sau khoảng 6-9 tháng. (2)
Khi bị tổn thương gân nghiêm trọng, chỉ tập vật lý trị liệu là chưa đủ để khôi phục khả năng vận động. Người bệnh cần ghép gân đồng loại theo chỉ định của bác sĩ để rút ngắn thời gian điều trị. Sau khi kết hợp với nguồn gân mới, đặc điểm giải phẫu của khớp sẽ hoàn chỉnh, từ đó đẩy nhanh tốc độ hồi phục các chi nếu được chăm sóc và vận động đúng cách.
Nguồn gân cấy ghép cho người bệnh đã được kiểm tra kỹ lưỡng về mức độ tương thích và lưu trữ trong điều kiện vô khuẩn. Nên sau phẫu thuật, gân đồng loại nhanh chóng trở thành bộ phận chính thức trong cơ thể, thúc đẩy tái tạo mô bị tổn thương. Hệ thống mô và cơ hoàn chỉnh là điều kiện quan trọng để người bệnh lấy lại khả năng cử động bình thường.
Luật hiến mô, hiến tạng ra đời vào năm 2007 cùng với tốc độ phát triển kỹ thuật bảo quản mô, tạng đã góp phần nâng cao hiệu quả phẫu thuật ghép gân đồng loại. (3)
Tuy nhiên, vấn đề nan giải ở phẫu thuật ghép gân đồng loại là nguồn hiến tặng. Theo thống kê, trung bình 3 tháng chỉ có khoảng 10-15 người hiến gân, trong khi người bệnh có nhu cầu ghép gân lại quá đông. Do khan hiếm về số lượng, nên bác sĩ rất chặt chẽ trong chẩn đoán, chỉ định ghép gân. Khi có nguồn gân phù hợp, người bệnh đã chờ đợi từ trước sẽ được ưu tiên phẫu thuật trước, người bệnh đến sau phải tiếp tục chờ đợi.
So với ghép gân tự thân, sử dụng gân đồng loại có chi phí cao hơn, gây khó khăn cho người bệnh không có điều kiện kinh tế tốt. Do đó, dù không thực sự phù hợp, nhiều người bệnh vẫn đề nghị bác sĩ ghép gân tự thân để tiết kiệm tài chính.
Bác sĩ và người nhà cần phối hợp để theo dõi sức khỏe người bệnh sau khi ghép gân. Người bệnh sau khi tỉnh dậy (nếu là gây mê) phải có tinh thần ổn định, các chỉ số sức khỏe ở mức bình thường mới đảm bảo an toàn. Bất kỳ dấu hiệu bất thường nào đều phải nhanh chóng can thiệp để tránh rủi ro ngoài ý muốn.
Sau phẫu thuật ghép gân đồng loại, người bệnh cần có thời gian phục hồi thể trạng và tập vật lý trị liệu để cải thiện khả năng vận động. Với ca phẫu thuật thành công và tập luyện điều độ, sau khoảng 2-3 tháng, người bệnh có thể cử động bình thường ở chi được ghép gân.
Người bệnh không nên tập luyện quá mức sau phẫu thuật với mục đích rút ngắn thời gian bình phục. Điều này không những không giúp gân ghép nhanh lành, mà ngược lại còn gây tổn thương gân ghép, các mô và cơ xung quanh. Người bệnh nên tập luyện theo chỉ định của bác sĩ, nghỉ ngơi, thư giãn hợp lý.
Sau phẫu thuật ghép gân, người bệnh nên ăn thức ăn mềm, lỏng, dễ nhai, dễ tiêu hóa. Khi sức khỏe ổn định, mới chuyển sang ăn thức ăn cứng, đặc hơn. Thực đơn mỗi ngày cho người vừa ghép gân cần có đủ các nhóm chất dinh dưỡng thiết yếu như vitamin, protein, kali, canxi… để hỗ trợ lành thương, tái tạo các mô quanh vết mổ.
Người bệnh cũng nên kiêng một số thực phẩm, chẳng hạn như hải sản, rau muống, thịt bò… để hạn chế hình thành sẹo ở vết thương. Nước ngọt, rượu bia cũng không thích hợp cho người bệnh sau phẫu thuật, tuyệt đối không nên dùng để tránh gây nhiễm trùng, kéo dài thời gian bình phục.
Nhiễm trùng là nguy cơ thường gặp nhất sau khi ghép gân. Nguyên nhân là do nguồn gân hiến tặng không được kiểm tra kỹ, thiếu sót trong khâu lưu trữ và bảo quản. Các trường hợp bị nhiễm trùng nghiêm trọng thậm chí có thể tử vong. Đã có ghi nhận về 38 trường hợp bị nhiễm viêm gan siêu vi C sau khi ghép gân đồng loại tại Mỹ, vì không phát hiện nguồn gân ghép có virus dù đã kiểm tra mô ghép trước đó.
Trong một số trường hợp, nguồn gân từ nguồn hiến tặng không tương thích với cơ thể người bệnh nên xảy ra phản ứng miễn dịch, đào thải gân ghép. Biến chứng này khiến phẫu thuật ghép gân thất bại. Nếu không xử lý kịp thời, vết mổ của người bệnh có thể nhiễm trùng hoặc thậm chí hoại tử.
Thao tác phẫu thuật của bác sĩ không chuẩn, sai sót, gân ghép sau khi đưa vào cơ thể người bệnh sẽ bị hỏng hóc hoặc lỏng lẻo. Biến chứng làm ảnh hưởng thời gian hồi phục và khả năng vận động của người bệnh sau phẫu thuật. Trường hợp nặng còn mất khả năng cử động, ảnh hưởng các cơ và chi liên quan. Điều này giải thích vì sao dù người bệnh đã tập vật lý trị liệu đúng cách nhưng sức khỏe vẫn không cải thiện, thậm chí có xu hướng tệ hơn.
Biến chứng và rủi ro sau ghép gân đồng loại xảy ra khi không đáp ứng điều kiện phẫu thuật hoặc tay nghề bác sĩ. Vì vậy, người bệnh cần tìm hiểu và đến bệnh viện uy tín. Trung tâm Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM và Phòng khám Đa khoa Tâm Anh Quận 7 là nơi thực hiện phẫu thuật ghép gân đáng tin cậy.
Đây cũng là hai cơ sở y tế này sở hữu nhiều hệ thống máy móc hiện đại như CT 768 lát cắt, MRI 1,5 – 3 Tesla, máy X quang kỹ thuật số treo trần, hệ thống máy siêu âm 3D, 4D… cho phép thực hiện phẫu thuật cơ xương khớp chuẩn xác, đảm bảo hiệu quả điều trị cao.
Đặc biệt, Trung tâm Chấn thương chỉnh hình và Phòng khám Tâm Anh Quận 7 còn quy tụ đội ngũ bác sĩ có nhiều năm kinh nghiệm không chỉ trong phẫu thuật ghép gân mà còn trong khám và điều trị các bệnh lý về cơ xương khớp và chấn thương chỉnh hình như bệnh cột sống, loãng xương, thoái hóa khớp, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm, viêm khớp…
Để thăm khám và điều trị bệnh về cơ xương khớp, bạn hãy liên hệ Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Phòng khám Đa khoa Tâm Anh Quận 7 thông qua thông tin sau:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Ghép gân đồng loại tại bệnh viện uy tín có tỷ lệ thành công cao, không gây biến chứng nguy hiểm. Người bệnh cần ăn uống và tập luyện theo chỉ định của bác sĩ sau phẫu thuật để nhanh chóng hồi phục. Nếu phát hiện bất thường sau phẫu thuật, phải nhanh chóng liên hệ với bác sĩ ngay.