Nhiễm khuẩn sơ sinh vẫn là thách thức lớn đối với đội ngũ bác sĩ điều trị và các bậc phụ huynh. Nhiễm khuẩn sơ sinh là một trong những thách thức lớn đối với đội ngũ bác sĩ và các bậc phụ huynh. Nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh thường nặng, diễn biến phức tạp, tỷ lệ tử vong cao, dễ để lại các di chứng. Do đó, việc theo dõi sát sao, phòng ngừa nhiễm khuẩn và can thiệp kịp thời là vô cùng cần thiết để bảo vệ trẻ khỏi các biến chứng nguy hiểm.

Nhiễm khuẩn sơ sinh là tình trạng nhiễm khuẩn trên trẻ lứa tuổi sơ sinh (từ lúc sinh cho đến 28 ngày tuổi). Trẻ sơ sinh là đối tượng đặc biệt dễ mắc bệnh do hệ thống miễn dịch chưa phát triển đầy đủ. Nhất là ở những trẻ sơ sinh non yếu, vừa sinh ra đã phải cần nhiều thủ thuật xâm lấn vào cơ thể. (1)
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có khoảng 5 triệu trẻ sơ sinh tử vong do nhiễm khuẩn, trong đó 98% các trường hợp xảy ra ở các nước đang phát triển. Các bệnh nhiễm khuẩn thường gặp trong thời kỳ sơ sinh bao gồm: viêm phổi, viêm da, viêm rốn, viêm màng não mủ, và nhiễm trùng huyết. Các nguyên nhân gây bệnh phổ biến là vi khuẩn Gram âm (Gr -) và tụ cầu. Vi khuẩn có thể xâm nhập và gây nhiễm trùng cho thai nhi từ trong tử cung, trong quá trình sinh hoặc sau sinh.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần Diệu Linh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương (2013-2014) ghi nhận có 195 ca nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh sớm, chiếm 1,7% tổng số ca sinh sống. Trong số này, có 27/195 ca (chiếm 13,8%) có kết quả cấy máu dương tính. Nghiên cứu của Khu Thị Khánh Dung và cộng sự về đặc điểm lâm sàng của viêm phổi sơ sinh cho thấy tỷ lệ trẻ mắc viêm phổi trong nhóm nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh rất cao (90,3%), trong đó 9,7% trẻ mắc viêm phổi sơ sinh tử vong.
Nhiễm khuẩn sơ sinh là một trong những thách thức và mối quan tâm hàng đầu không chỉ ở những nước chậm phát triển, đang phát triển mà vẫn còn ở cả các quốc gia phát triển trên toàn thế giới.

Dấu hiệu nhiễm khuẩn sơ sinh có thể xuất hiện sớm hoặc muộn tùy thuộc vào thời điểm trẻ bị nhiễm khuẩn, tác nhân gây nhiễm khuẩn và sức đề kháng của trẻ: (2)
Nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh sớm là những trường hợp trẻ bị nhiễm khuẩn trong vòng 72 giờ đầu sau sinh. Phần lớn những trường hợp này do lây truyền từ mẹ sang con. Các triệu chứng của nhiễm khuẩn sơ sinh sớm gồm:
Nhiễm khuẩn sơ sinh muộn là tình trạng trẻ nhiễm khuẩn sau 72 giờ đầu sau sinh với các triệu chứng như:
Dưới đây là một số yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn sơ sinh:
Trẻ sơ sinh có tuổi thai càng thấp hoặc trẻ sinh ra thiếu cân, đặc biệt trẻ có cân nặng <1.500gam có nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) cao hơn so với trẻ đủ tháng. Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện thay đổi theo cân nặng của trẻ: ở trẻ 501gam – 750gam (26%); 751gam – 1.000gam (22%); 1.001gam – 1.250gam (15%); 1.251gam – 1.500gam (8%).
Ngoài ra, một số yếu tố cơ địa khác làm tăng nguy cơ mắc nhiễm khuẩn bệnh viện ở trẻ sơ sinh gồm: trẻ ngạt khi sinh, suy giảm miễn dịch và tình trạng bệnh nặng.


Nhiễm khuẩn sơ sinh từ mẹ là tình trạng trẻ bị nhiễm khuẩn do lây truyền từ người mẹ trong quá trình mang thai, chuyển dạ hoặc sinh nở. Nguy cơ này tăng cao khi người mẹ bị nhiễm khuẩn đường sinh dục, nhiễm khuẩn tiết niệu, sốt trong khi chuyển dạ, vỡ ối sớm trước sinh hoặc vỡ ối kéo dài trên 18 giờ.
Các vi khuẩn thường gặp nhất gây nhiễm khuẩn từ mẹ là liên cầu khuẩn nhóm B, E.coli và các vi khuẩn đường ruột khác. Trẻ có thể nhiễm khuẩn khi nuốt hoặc hít phải dịch ối nhiễm khuẩn, hoặc khi đi qua đường sinh dục của mẹ trong quá trình sinh.
Ba vi khuẩn thường gây nhiễm khuẩn sơ sinh sớm gồm: Liên cầu khuẩn nhóm B, E.coli, Listeria. Trẻ bị nhiễm khuẩn do mẹ bị rỉ ối hoặc vỡ ối kéo dài có thể do các tác nhân: E.coli, Klebsiella, Pseudomonas, Proteus, tụ cầu, liên cầu nhóm B… Ngoài ra, còn có nhiều vi khuẩn có thể gây nhiễm khuẩn truyền qua đường mẹ – thai nhi nhưng hiếm gặp như: Haemophilus, Meningococcus, Staphylococcus, Pneumococcus…
Việc chẩn đoán nhiễm khuẩn sơ sinh sẽ được thực hiện nhanh chóng khi trẻ có các triệu chứng nghi ngờ nhiễm khuẩn, bao gồm khám lâm sàng và chỉ định thực hiện các cận lâm sàng liên quan. Điều này giúp xác định rõ nguyên nhân gây bệnh và tình trạng nhiễm khuẩn của trẻ, từ đó xây dựng phác đồ điều trị phù hợp, cải thiện tiên lượng cho trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn. Một số cận lâm sàng thường được chỉ định:
Tùy vào từng trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp, bao gồm điều trị tác nhân gây nhiễm khuẩn và điều trị hỗ trợ các triệu chứng. Nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh sẽ được điều trị bằng phác đồ kháng sinh phù hợp. Các biện pháp điều trị hỗ trợ có thể được thực hiện bao gồm: truyền thuốc và dinh dưỡng, tích cực nuôi ăn bằng sữa mẹ nếu có thể, duy trì thân nhiệt ổn định, hỗ trợ hô hấp khi cần thiết và điều chỉnh rối loạn điện giải, toan kiềm…
Phần lớn trẻ sẽ được yêu cầu nhập viện trong suốt thời gian điều trị để bác sĩ theo dõi sát sao các dấu hiệu sinh tồn, triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm định kỳ để đánh giá hiệu quả điều trị và điều chỉnh phác đồ kịp thời. Khi tình trạng bệnh đã thuyên giảm, trẻ có thể xuất viện, bác sĩ sẽ hướng dẫn trẻ chăm sóc trẻ tại nhà.

Trẻ sơ sinh có nguy cơ nhiễm các bệnh như: Thủy đậu, viêm gan, HIV, Coxsackie, Echo virus, Liên cầu tan huyết nhóm B, Listeria, Haemophilus Influenzae, phế cầu, sốt rét. Ngoài ra, trẻ có thể nhiễm khuẩn do mẹ bị rỉ ối hoặc vỡ ối kéo dài: E.coli, Klebsiella, Pseudomonas, Proteus, Bacteria, tụ cầu, liên cầu nhóm B…Trẻ cũng có thể mắc bệnh do: Tụ cầu vàng, Phế cầu, Clostridium, trực khuẩn mủ xanh, Coliform, nấm candida. Ba tác nhân gây bệnh ở trẻ sơ sinh chính là: Vi khuẩn, virus, nấm. (3)
Ba vi khuẩn thường gây nhiễm trùng sơ sinh sớm gồm: Liên cầu khuẩn nhóm B, Colibacille, Listéria. Ngoài ra, cũng có nhiều vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng truyền qua đường mẹ – thai nhi nhưng hiếm gặp như: Haemophilus, Méningococcus, Staphylococcus, Pneumococcus….
Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm virus trong bào thai, lúc sinh, hoặc sau khi sinh. Đa số nhiễm virus do trẻ hít hoặc nuốt phải vi khuẩn sống bình thường trong đường sinh dục của mẹ khi đi qua trong lúc sinh. Sau đó vi khuẩn hoặc virus đi vào phổi hoặc vào máu của bé. Một số loại virus như Herpes hay thủy đậu có thể gây ra bệnh nặng ở trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sinh non. Virus có thể đi vào máu của trẻ sơ sinh khi trẻ còn trong bụng người mẹ bị nhiễm virus này, hoặc nhiễm sau sinh nếu tiếp xúc với người mắc bệnh.
Nấm miệng Candida là bệnh thường gặp ở trẻ em. Nấm Candida bình thường tồn tại ở da, hệ tiêu hóa, cơ quan sinh dục nữ. Trẻ em thường nhiễm nấm Candida trong lúc sinh khi mẹ bị nấm Candida âm đạo lúc mang thai. Miệng trẻ sơ sinh có pH thấp thuận lợi cho nấm phát triển. Những yếu tố thuận lợi khiến nấm ở miệng phát triển gây bệnh gồm miễn dịch trẻ chưa trưởng thành, vệ sinh răng miệng kém.
Một số biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn sơ sinh:
Đảm bảo được điều kiện vô khuẩn, các nhân viên y tế phải:
Chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn sơ sinh, bố mẹ cần lưu ý các vấn đề dưới đây:
Trẻ sơ sinh có hệ miễn dịch yếu, trong sữa mẹ có các kháng thể giúp trẻ chống lại tình trạng viêm nhiễm. Do đó, việc cho trẻ bú mẹ không chỉ cung cấp dinh dưỡng mà còn giúp tăng cường khả năng miễn dịch, giảm nguy cơ nhiễm khuẩn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ bú mẹ ít bị nhiễm khuẩn hơn so với trẻ bú bình, nhờ vào khả năng tự nhiên của sữa mẹ trong việc bảo vệ trẻ khỏi các tác nhân gây bệnh.

Đối với trẻ sơ sinh đặc biệt lưu ý trong việc chăm sóc các vùng da, rốn và mắt vì ở giai đoạn này, các vùng này rất nhạy cảm và dễ dàng bị nhiễm khuẩn.
Giữ thân nhiệt ổn định: Trẻ sơ sinh cơ thể non nớt, rất dễ hạ thân nhiệt sau sinh. Do đó, trẻ sinh ra phải giữ thân nhiệt ổn định không quá lạnh cũng không quá nóng. Cần lưu ý có 1 số phụ huynh vì quá lo lắng trẻ bị lạnh, nên cho trẻ mặc quần áo hoặc quấn khăn quá dày, khiến trẻ nóng, khó chịu.
Điều trị chậm trễ, nhiễm khuẩn sơ sinh có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như:
Dưới đây là một số câu hỏi thường gặp về nhiễm khuẩn sơ sinh:
Có, nhiễm khuẩn sơ sinh là một tình trạng bệnh lý nguy hiểm cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Ước tính mỗi năm trên thế giới có hơn 550.000 trẻ sơ sinh tử vong do nhiễm trùng sơ sinh, đa số xuất phát từ vi khuẩn.
Nhiễm khuẩn sơ sinh có lây không sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân gây nhiễm khuẩn ở trẻ. Ví dụ như vi khuẩn gây bệnh viêm phổi, viêm hô hấp có thể lây lan từ người này sang người khác nếu không được kiểm soát và phòng ngừa tốt. Nhưng ở những trường hợp trẻ nhiễm khuẩn tiết niệu, nhiễm trùng rốn thì bệnh sẽ ít nguy cơ lây lan sang những trẻ khác.
Thời gian điều trị trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn sẽ tùy thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ nhiễm khuẩn, vị trí nhiễm khuẩn, nguyên nhân gây nhiễm khuẩn và khả năng đáp ứng với điều trị ở từng trẻ. Thời gian điều trị có thể kéo dài 7 – 21 ngày hoặc lâu hơn tùy trường hợp.
Có, trẻ bị nhiễm khuẩn sơ sinh cần cách ly với những trẻ khác trong suốt thời gian mắc bệnh. Điều này không chỉ giúp ngăn ngừa sự lây lan của bệnh mà còn giúp giảm nguy cơ bội nhiễm ở trẻ.
Tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, công tác phòng ngừa nhiễm khuẩn và củng cố hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn luôn là ưu tiên hàng đầu xuyên suốt quá trình vận hành bệnh viện.
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn Bệnh viện đã được Ban Lãnh đạo bệnh viện rất quan tâm và thành lập ngay từ buổi đầu bệnh viện hoạt động, đảm bảo việc kiểm tra – giám sát những vấn đề về KSNK của bệnh viện: Môi trường sạch, kỹ thuật và dụng cụ chăm sóc bệnh vô khuẩn… bên cạnh đó việc tuyên truyền và giáo dục người bệnh và người nhà cùng tham gia vệ sinh tay đã góp phần không nhỏ vào việc phòng bệnh và giảm nguy cơ nhiễm khuẩn, đặc biệt nhiễm khuẩn sơ sinh.
Trung tâm Sơ sinh – Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh với trang thiết bị máy móc tân tiến, cùng với đội ngũ Y Bác sĩ giỏi chuyên môn, yêu trẻ, các Thầy thuốc đã cùng quyết tâm phòng ngừa nhiễm khuẩn ở bé sơ sinh thông qua việc áp dụng chặt chẽ các qui trình qui định về kiểm soát nhiễm khuẩn theo quy định của Bộ Y tế cũng như tiêu chuẩn Quốc tế với mong muốn giảm thiểu tối đa nguy cơ lây nhiễm chéo cho trẻ khi đến thăm khám và điều trị.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhiễm khuẩn sơ sinh, bao gồm các yếu tố trong thai kỳ, sinh nở và sau sinh; do đó, cần chủ động phòng ngừa vấn đề này cho trẻ. Phòng ngừa nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh không chỉ là vấn đề kiểm soát nhiễm khuẩn của bệnh viện mà còn là trách nhiệm của gia đình trong chăm sóc, theo dõi sức khỏe thai kỳ và sức khỏe của trẻ ngay từ khi mới sinh.