Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn có thể là cấp tính hoặc mạn tính, xảy ra khi số lượng tiểu cầu giảm thấp, gây ức chế quá trình đông máu. Phương pháp điều trị chủ yếu là dùng thuốc, hoặc can thiệp phẫu thuật cắt bỏ lá lách trong trường hợp nghiêm trọng.
Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là tình trạng rối loạn máu xảy ra khi số lượng tiểu cầu giảm thấp, gây ức chế quá trình đông máu. Khi máu không thể hình thành cục máu đông, cơ thể sẽ dễ bị bầm tím, chảy nhiều máu khi bị thương hoặc chảy máu không rõ nguyên nhân.
Tình trạng này thường xảy ra khi hệ thống miễn dịch loại bỏ tiểu cầu khỏi quá trình lưu thông máu, làm cho mức tiểu cầu giảm xuống thấp hơn bình thường. Bệnh có thể tự khỏi hoặc phải can thiệp điều trị tùy vào từng trường hợp. Đôi khi, xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là một tình trạng mạn tính, chỉ có thể kiểm soát triệu chứng, không thể chữa trị dứt điểm.
Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn (xuyết huyết giảm tiểu cầu miễn dịch hay xuất huyết giảm tiểu cầu) được chia thành hai dạng như sau:
Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn cấp tính thường xảy ra ở trẻ nhỏ từ 2 – 6 tuổi. Các triệu chứng có thể xảy ra sau khi mắc một căn bệnh do virus (như bệnh thủy đậu). Bệnh thường khởi phát đột ngột và biến mất trong vòng chưa đầy 6 tháng, phổ biến là trong vòng vài tuần. Người bệnh có thể không cần điều trị và khả năng tái phát cũng không cao.
Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn mạn tính có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Triệu chứng có thể kéo dài tối thiểu 6 tháng, nhiều năm hoặc thậm chí là suốt đời [1]. Trong đó, đối tượng mắc bệnh phổ biến là người lớn, đặc biệt là nữ giới. Người bệnh cũng được chăm sóc và theo dõi liên tục tại khoa huyết học để tránh các biến chứng nguy hiểm.
Khi mắc bệnh giảm tiểu cầu vô căn, hệ thống miễn dịch được kích thích sản xuất kháng thể để tấn công tiểu cầu trong cơ thể. Trong một số ít trường hợp, một loại tế bào bạch cầu gọi là tế bào T sẽ trực tiếp tấn công tiểu cầu. Nguyên nhân có thể xuất phát từ các yếu tố sau đây:
Trong một số trường hợp, nguyên nhân gây bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn không thể xác định được.
Số lượng tiểu cầu bình thường nằm trong khoảng từ 150.000 đến 450.000. Khi mắc bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, số lượng tiểu cầu chỉ ở mức dưới 100.000 [3]. Trong trường hợp nghiêm trọng, số lượng tiểu cầu có thể giảm xuống dưới 10.000. Số lượng tiểu cầu càng thấp, nguy cơ chảy máu càng cao.
Tiểu cầu thực hiện chức năng giúp cầm máu. Do đó, người bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn thường xuất hiện các triệu chứng liên quan đến tình trạng chảy máu nhiều hơn, có thể kể đến như:
Đặc biệt, chảy máu ở đầu là triệu chứng nguy hiểm nhất của bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn. Bất kỳ chấn thương đầu nào xảy ra ở những bệnh nhân này đều có thể đe dọa đến tính mạng do không đủ tiểu cầu để cầm máu.
Chẩn đoán xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là một quá trình sử dụng phương pháp loại trừ. Đầu tiên, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện xét nghiệm máu để xác định rằng, không có bất thường về máu ngoài số lượng tiểu cầu thấp và cũng không có dấu hiệu thực thể khác ngoài biểu hiện chảy máu.
Sau đó, bác sĩ tiếp tục loại trừ các nguyên nhân thứ phát bao gồm: thuốc (quinine hoặc heparin), nhiễm virus (HIV hoặc HCV), bệnh ác tính (bệnh bạch cầu), các tình trạng tự miễn (lupus ban đỏ hệ thống hoặc hội chứng kháng phospholipid)…
Tất cả bệnh nhân có nghi ngờ mắc xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn nên được xét nghiệm HIV và virus viêm gan C, vì số lượng tiểu cầu có thể được điều chỉnh bằng cách điều trị những bệnh lý tiềm ẩn này. Khoảng 2,7 – 5% xảy ra đồng thời thiếu máu tan máu tự miễn và xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn [4].
Xét nghiệm tủy xương có thể được thực hiện ở những bệnh nhân trên 60 tuổi và những người không đáp ứng với điều trị hoặc các phương pháp chẩn đoán khác không có kết quả. Thông qua phương pháp này, bác sĩ có thể quan sát thấy sự gia tăng sản xuất đại thực bào, từ đó giúp xác định chẩn đoán ITP.
Phương pháp điều trị cụ thể cho bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn sẽ được bác sĩ cân nhắc chỉ định dựa trên các yếu tố:
Trong đó, hai hình thức điều trị tức thời phổ biến nhất là steroid và gamma globulin tiêm tĩnh mạch:
Các phương pháp điều trị khác cũng có thể được sử dụng trong điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn bao gồm:
Trong trường hợp số lượng tiểu cầu giảm xuống mức cực thấp (<5.000 tiểu cầu/ μL), cơ thể có thể phát sinh các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí gây tử vong. Các biến chứng thường gặp bao gồm:
Ngoài ra, người bệnh cũng rất dễ bị chảy máu trong do chấn thương bụng kín khi gặp tai nạn.
Tiên lượng đối với bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn có thể thay đổi tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Đôi khi, người bệnh có thể bình phục trong khoảng vài tuần hoặc vài tháng mà không cần can thiệp điều trị. Đối với xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn mạn tính, khả năng điều trị dứt điểm là không thể xảy ra, chỉ có thể điều trị kiểm soát triệu chứng tạm thời. Tuy nhiên, nhiều người bệnh mắc phải bệnh lý này vẫn có thể sống lên đến vài chục năm.
Rất hiếm khi xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn khiến lượng tiểu cầu giảm xuống mức quá thấp hay chảy máu mất kiểm soát. Tuy nhiên, người bệnh nên theo dõi tình hình cơ thể của mình để cấp cứu khi cần thiết.
Dưới đây là phần giải đáp một số giải đáp thắc mắc liên quan đến tình trạng xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn:
Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn hiếm khi gây nguy hiểm. Nhiều trường hợp cấp tính có thể tự hồi phục mà không cần can thiệp điều trị. Tuy nhiên, người bệnh không nên chủ quan về bệnh lý này. Một số ít trường hợp vẫn xuất hiện tình trạng chảy máu ở đầu, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng.
Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn thường xảy ra phổ biến ở các đối tượng sau:
Để đặt lịch thăm khám, điều trị tình trạng giảm tiểu cầu hoặc các bệnh lý liên quan đến tiểu cầu tại khoa Nội Tổng hợp, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Quý khách vui lòng liên hệ:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Trên đây là bài viết tổng hợp thông tin chi tiết liên quan đến xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, nguyên nhân, triệu chứng, phương pháp chẩn đoán và điều trị hiệu quả. Hy vọng người bệnh đã có thêm nhiều cập nhật hữu ích liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe.