
Đồng tính nữ (đồng giới nữ) hay còn được gọi là “Les” là viết tắt của từ tiếng Anh “lesbian”, chỉ những người nữ bị hấp dẫn tình yêu hoặc xu hướng tính dục với phụ nữ khác. Đồng tính nữ là một phần của cộng đồng LGBT, bao gồm Đồng tính nữ (Lesbian), đồng tính nam (Gay), song tính (Bisexual) và chuyển giới (Transgender).

Đồng tính nữ hay còn gọi là Les (viết tắt của từ Lesbian) là khái niệm dùng để chỉ những người phụ nữ mang các đặc điểm sinh học giống phụ nữ bình thường nhưng có xu hướng tình cảm, lãng mạn và/hoặc tình dục hoá với người cùng giới tính, trong một thời gian dài hoặc chỉ gắn bó tạm thời. Không chỉ phụ nữ, mà một số người có giới tính phi nhị nguyên (nonbinary), những người không xác định mình thuộc hai giới tính truyền thống là nam và nữ cũng có thể nhận mình là đồng tính nữ nếu họ bị hấp dẫn bởi phụ nữ.
Khái niệm về đồng tính nữ đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Lần đầu tiên, đồng tính nữ được ghi nhận trong Bộ luật Hammurabi của Babylon, từ khoảng năm 1700 TCN, nơi phụ nữ được phép kết hôn với nhau. (1)

Cộng đồng người đồng giới nữ được chia thành nhiều kiểu dạng khác nhau, phản ánh sự đa dạng trong phong cách cũng như là cách mà mỗi cá nhân tự định nghĩa bản thân trong xã hội, cộng đồng. Dựa trên các đặc điểm xu hướng tính dục cũng như tâm, sinh lý, người ta chia thành 3 kiểu dạng đồng tính nữ phổ biến như sau:
Xu hướng kiểu Female Lesbian chỉ những người thuộc “phái yếu” trong một mối quan hệ đồng giới nữ. Những người FEM thường mang những đặc tính nhẹ nhàng, bẽn lẽn và thường ở thế bị động, trong khi đó người đồng giới nữ thuộc hệ Lipstick Les mang thêm những nét cá tính riêng. Trong mối quan hệ, họ thường đóng vai trò là “người vợ”.
Soft Butch là khái niệm dùng để mô tả một người đồng tính nữ (lesbian) có biểu hiện và phong cách kết hợp giữa sự mạnh mẽ (butch) và mềm mại (feminine). Soft Butch nằm ở ranh giới giữa “butch” (phong cách nam tính, mạnh mẽ) và “femme” (phong cách nữ tính). Những người thuộc nhóm Soft Butch thường không hoàn toàn nghiêng về một bên, mà có sự pha trộn hài hòa giữa hai phong cách này.

Nhờ hiệu ứng truyền thông cũng như sự đấu tranh của cộng đồng LGBT, ngày nay người đồng tính phần nào được xã hội chấp thuận và bảo vệ. Tuy nhiên bên cạnh những thay đổi tích cực góp phần phát triển và bảo vệ cộng đồng LGBT, những người đồng tính đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn:
Một trong những thách thức lớn nhất mà người đồng giới nữ đối mặt là sự chấp nhận từ gia đình và xã hội. Điều này có thể ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe tinh thần, cảm giác an toàn và chất lượng cuộc sống của họ.
Đối với các quốc gia thuộc nền văn hoá Á Đông như Việt Nam, người con gái được kỳ vọng sẽ kết hôn và sinh con. Tuy nhiên việc một người nữ công khai xu hướng tính dục có thể khiến gia đình họ thất vọng. Không ít người đối mặt với áp lực phải thay đổi để đáp ứng mong đợi của cha mẹ, thậm chí có trường hợp bị giảm bớt sự hỗ trợ về tài chính và tinh thần.
Điều này sẽ khiến bản thân người đồng tính cảm thấy bị cô lập, lạc lõng và học cách tự đối mặt và giải quyết các vấn đề khó khăn. Nghiêm trọng hơn, một số gia đình cố gắng áp đặt các hình thực “trị liệu chuyển đổi” hoặc ép người đồng tính nữ kết hôn với người khác giới để phù hợp với các tiêu chuẩn truyền thống của xã hội.
Người đồng giới nữ thường xuyên đối mặt với những định kiến và kỳ thị từ xã hội. Họ có thể chịu đựng những ánh mắt dò xét, những bình luận miệt thị hoặc thậm chí sự kỳ thị công khai từ những người xung quanh khi có những biểu hiện, cử chỉ tình cảm với bạn đồng giới. Điều này không chỉ gây tổn thương tâm lý mà còn làm giảm sự tự tin của người đồng tính trong các mối quan hệ và công việc.
Sự kỳ thị kép thường gây ra những tổn thương tâm lý sâu sắc cho người đồng tính nữ, khiến họ dễ rơi vào cảm giác cô lập, tự ti và ngần ngại chia sẻ câu chuyện của mình. Điều này làm tăng nguy cơ lo âu, trầm cảm hoặc các vấn đề sức khỏe tinh thần khác.
Một số người buộc phải che giấu xu hướng tình dục để tránh kỳ thị, dẫn đến tâm lý căng thẳng và lo lắng thường trực. Áp lực từ xã hội và những giằng co nội tâm không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí khiến họ mất phương hướng trong hành trình khẳng định bản thân.

Cộng đồng LGBTQ+ đối mặt với tỷ lệ bạo lực cao hơn đáng kể so với người dị tính. Theo nghiên cứu, 20% tội ác thù ghét tại Mỹ liên quan đến xu hướng tính dục, trong khi 2% liên quan đến nhận diện giới. Những người chuyển giới, đặc biệt là phụ nữ chuyển giới da màu, là nhóm bị bạo lực nghiêm trọng nhất. Ngoài ra, bạo lực trong gia đình và mối quan hệ tình cảm cũng phổ biến trong cộng đồng LGBTQ+, khiến việc xây dựng mối quan hệ an toàn, công bằng trở thành thách thức lớn.
Tại Việt Nam hiệu chưa có các điều tra, nghiên cứu xã hội học về tỷ lệ bạo lực ở người đồng giới nữ. Tuy nhiên nhiều bằng cho thấy tồn tại bạo lực ở cộng đồng LGBTQ+, trong đó có người đồng tính nữ.
Đồng tính nữ không phải bệnh. Từ năm 1973, Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) chính thức loại bỏ đồng tính ra khỏi danh mục các rối loạn tâm thần.
Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã loại bỏ đồng tính khỏi bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD). Kể từ đó, đồng tính được coi là một phần tự nhiên của sự đa dạng trong xu hướng tính dục của con người, tương tự như dị tính hay song tính. Đồng tính nữ không phải là điều có thể thay đổi hoặc cần “chữa trị”. Bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay đổi xu hướng tính dục đều được xem là phản khoa học và đi ngược lại tính nhân bản.
Các cặp đồng giới nữ vẫn có thể mang thai và sinh con nhờ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại. Vấn đề của các cặp đôi đồng giới nữ là thiếu tinh trùng và đưa ra quyết định ai sẽ là người lấy trứng, mang thai.
Hiện nay, các cặp đôi đồng tính nữ có thể có con với tư cách là mẹ đơn thân thông qua ngân hàng tinh trùng. Để xin mẫu tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng, cặp đôi cần tìm một người để hiến mẫu tinh trùng vào ngân hàng.
Người hiến tinh trùng cần đảm bảo các tiêu chí gồm trên 20 tuổi, không mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, không mang các rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến thế hệ sau, và mẫu tinh trùng thỏa điều kiện hiến. Mẫu tinh trùng sẽ được hiến vào trong ngân hàng tinh trùng, sau đó hoán đổi ngẫu nhiên theo nguyên tắc vô danh (người nhận không biết mẫu hiến của ai).
Thụ tinh ống nghiệm là phương pháp hỗ trợ sinh sản được chỉ định phổ biến đối với trường hợp cặp đôi đồng giới nữ. Để thực hiện, noãn của một người sẽ được kết hợp với mẫu tinh trùng lấy từ ngân hàng tinh trùng, tạo phôi trong môi trường phòng Lab của trung tâm hỗ trợ sinh sản. Vào thời điểm thích hợp, bác sĩ sẽ chuyển phôi. Người được lấy trứng và người mang thai phải cùng một người.
Tìm hiểu thêm: Thụ tinh nhân tạo cho người đồng giới nữ
Lưu ý, có con thành công là khao khát của nhiều cặp đôi đồng tính nữ, tuy nhiên các cặp đôi cần lưu ý vấn đề pháp lý trước khi điều trị hỗ trợ sinh sản. Hiện nay luật pháp Việt Nam chưa công nhận hôn nhân đồng giới. Vì vậy việc ghi tên cả hai người mẹ trên giấy khai sinh của trẻ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, cả hai cần chuẩn bị tốt cả về tài chính, thể chất lẫn tinh thần nhằm đảm bảo tạo môi trường tích cực, yêu thương để đứa trẻ phát triển toàn diện.

Tương tự bất kỳ các cặp đôi khác xảy ra quan hệ tình dục, người đồng tính nữ cần áp dụng các phương pháp phòng tránh an toàn nhằm bảo vệ sức khỏe bạn thân và “đối tác”. Để phòng tránh nguy cơ lây nhiễm bệnh truyền nhiễm lây qua đường tình dục, các cặp đôi cần lưu ý những nguyên tắc sau:
Để tìm hiểu quy trình điều trị hỗ trợ sinh sản cho người đồng tính tại IVF Tâm Anh, quý khách hàng có thể liên hệ:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Đồng tính nữ là xu hướng tính dục tự nhiên của con người. Đáng tiếc trong quá khứ, cộng đồng LGBT nói chung và đồng tính nữ nói riêng chịu nhiều thiệt thòi do định kiến xã hội, tôn giáo và văn hóa. Những quan niệm này không chỉ đi ngược lại các giá trị cơ bản của con người mà gây nên những tổn thương tâm lý cho những người thuộc cộng đồng LGBTQ+. Vì vậy việc nhìn nhận, hiểu đúng và chấp thuận sự đa dạng tính dục là bước quan trọng để hướng đến xã hội bình đẳng, công bằng, mọi người được tôn trọng.