Đau mắt đỏ có thể do nhiều tác nhân gây ra như vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng, dị ứng. Bệnh đau mắt đỏ do virus thường gặp nhất, chiếm 80% – 90% tổng số ca bệnh, trong đó riêng Adenovirus gây ra 90% trường hợp [1]. Trong bài viết này, mời bạn tìm hiểu chi tiết về các loại virus gây bệnh đau mắt đỏ để có cách phòng và điều trị bệnh hiệu quả.
Đau mắt đỏ do virus là bệnh nhiễm trùng kết mạc cấp tính có tốc độ lây lan nhanh, dễ bùng phát thành dịch, nhất là trong các tháng mùa mưa. “Thủ phạm” chính gây bệnh đau mắt đỏ (hay viêm kết mạc) do virus là Adenovirus với những biểu hiện như kích ứng mắt, đỏ mắt, sợ ánh sáng, tiết dịch mủ, chảy nước mắt nhiều.
Ngoài ra, bệnh có thể do một số loại virus khác gây nên như Enterovirus, Herpes Simplex Virus, virus Zoster nhưng ít phổ biến hơn, chiếm khoảng 1,3% – 4,8% trường hợp viêm kết mạc do virus. [2]
Bệnh đau mắt đỏ còn có thể do vi khuẩn gây ra. Vậy đau mắt đỏ do virus có điểm gì khác so với bệnh đau mắt do vi khuẩn? Dưới đây là bảng so sánh sự khác nhau giữa 2 loại bệnh đau mắt đỏ này. [3]
Đau mắt đỏ do virus | Đau mắt đỏ do vi khuẩn | |
Mầm bệnh | Tác nhân gây bệnh từ virus như: Adenovirus, Herpes Simplex Virus, Enterovirus, Coronavirus… | Tác nhân gây bệnh từ vi khuẩn như: H. influenzae, Neisseria gonorrhoeae, S. pneumoniae, Chlamydia, Moraxella catarrhalis, Staphylococcus aureus… |
Triệu chứng | Mắt bị ngứa, dễ chảy nước mắt, tiết chất dịch loãng, xuất hiện nang kết mạc mí mắt dưới, có thể nổi hạch trước tai. | Đỏ mắt, cảm giác có vật thể lạ trong mắt, mờ mắt vào buổi sáng, chảy mủ hoặc dịch nhầy có màu trắng hoặc vàng, u nhú kết mạc và hạch bạch huyết trước tai nhưng hiếm gặp. |
Bệnh liên quan | Cảm lạnh thông thường, bệnh do virus khác. | Nhiễm trùng tai, đường hô hấp do vi khuẩn. |
Thời gian bệnh | 14 – 30 ngày | 7 – 14 ngày hoặc ngắn hơn nếu điều trị đúng cách |
Tính lây lan | Dễ lây lan |
Các loại virus đau mắt đỏ gây bệnh chủ yếu bao gồm:
Adenovirus là “thủ phạm” gây ra 80% – 90% trường hợp viêm kết mạc do virus. Adenovirus thuộc họ Adenoviridae – loại virus DNA sợi đôi, không có vỏ bọc. Virus này dễ tấn công và gây bệnh viêm kết mạc ở trẻ hơn người lớn. Virus dễ lây qua tiếp xúc trực tiếp, dùng chung vật dụng nhiễm mầm bệnh, hồ bơi công cộng.
Ngoài bệnh đau mắt đỏ, Adenovirus còn là tác nhân gây bệnh viêm giác mạc thành dịch (EKC), nhất là type huyết thanh 8, 19 và 37. Đây là bệnh nhiễm trùng mắt nghiêm trọng nhất do Adenovirus gây ra.
Enterovirus thuộc họ Picornaviridae với đặc điểm là kích thước nhỏ, không có vỏ bọc, cấu tạo từ 1 sợi RNA, capsid đối xứng hình khối. Bệnh viêm kết mạc do Enterovirus (cụ thể là Enterovirus type 68 – 71) gây ra còn được gọi là viêm kết mạc cấp tính xuất huyết (acute hemorrhagic conjunctivitis) do mắt có triệu chứng chảy máu. Ngoài ra, triệu chứng của bệnh còn bao gồm sưng phù kết mạc và mí mắt, cộm mắt, chảy nước mắt, thậm chí có thể kèm theo sốt, mệt mỏi, đau nhức chân tay.
Đau mắt đỏ do Enterovirus dễ lây lan. Bệnh lây truyền chủ yếu thông qua tiếp xúc với các đồ vật nhiễm bệnh rồi sờ lên mắt.
Coxsackievirus là một biến thể thuộc họ Enterovirus, tạo thành từ một chuỗi axit ribonucleic (RNA). Đau mắt đỏ do virus Coxsackie dễ lây lan, thường có các biểu hiện như mắt bị cộm giống như có dị vật, phù mí mắt và kết mạc, xuất huyết dưới kết mạc. Một số trường hợp xuất hiện triệu chứng toàn thân như sốt, đau nhức tay chân, mệt mỏi. Triệu chứng viêm kết mạc do Coxsackievirus thường xảy ra ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Đau mắt đỏ do Herpes Simplex virus (HSV) ít phổ biến, chiếm chưa tới 5% số ca bệnh đau mắt đỏ do virus gây ra, thường chỉ xuất hiện ở một bên mắt. Mắt bị nhiễm trùng thường có những biểu hiện như đỏ, đau, dễ chảy nước mắt, nhạy cảm với ánh sáng, thị lực giảm, sưng mí, xuất hiện mụn nước trên mí hoặc xung quanh mắt.
Bệnh có thể xảy ra ở cả người lớn và trẻ em. Người đang bị bệnh liên quan đến Herpes Simplex có nguy cơ bị đau mắt đỏ do loại virus này cao hơn. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có nguy cơ ảnh hưởng đến thị lực của người bệnh.
Varicella-zoster có thể gây viêm kết mạc do tiếp xúc trực tiếp với tổn thương mắt hoặc da hoặc không khí chứa mầm bệnh. Biểu hiện thường gặp là kết mạc có cảm giác bị tiêm chích, phù nề, thường xuất hiện các chấm xuất huyết.
Bệnh đau mắt đỏ còn có thể do Coronavirus gây ra, cụ thể là chủng COVID-19. Ngoài viêm kết mạc, bệnh còn đi kèm một số triệu chứng như sốt, ho, suy hô hấp, thậm chí có thể gây tử vong. Các nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu ghi nhận chỉ có khoảng 1% – 6% trường hợp đau mắt đỏ có liên quan đến COVID-19. Hiện chưa rõ cơ chế lây truyền của virus này tại mô mắt.
Những con đường lây truyền của các loại virus gây bệnh đau mắt đỏ gồm:
Bệnh đau mắt đỏ do virus gây ra thường có thời gian ủ bệnh khoảng 5 – 12 ngày. Khi bệnh phát tác thường có những triệu chứng sau:
Mắt có màu đỏ là dấu hiệu đặc trưng của bệnh viêm kết mạc. Đây dấu hiệu chung, không đặc trưng cho bệnh đau mắt đỏ do virus gây ra nên cần căn cứ vào các triệu chứng khác để có chẩn đoán chính xác.
Cường tụ kết mạc là một triệu chứng thường gặp ở người bệnh đau mắt đỏ nhưng không phải triệu chứng đặc hiệu, bởi cũng gặp ở một số bệnh về mắt khác như viêm giác mạc. Đây là hiện tượng tròng trắng mắt nổi lên các mạch máu lan tỏa theo hình nan hoa từ tròng đen tỏa ra về phía rìa mắt.
Khi bị viêm kết mạc do virus, người bệnh thường có hiện tượng chảy nước mắt bất thường. Đây là phản ứng của cơ thể khi mắt bị nhiễm trùng, mục đích duy trì độ ẩm và rửa trôi các mầm bệnh và dịch nhầy bám trên mắt.
Kích ứng mắt là một phản ứng phòng vệ tự nhiên của mắt. Khi bị mầm bệnh từ bên ngoài tấn công, hệ thống miễn dịch tại mắt được kích hoạt. Các tế bào miễn dịch sẽ đi tìm và tiêu diệt mầm bệnh khiến mắt có hiện tượng kích ứng.
Mắt của người bị viêm kết mạc do virus gây ra thường nhạy cảm với ánh sáng. Thậm chí mắt có thể bị đau dữ dội khi bị ánh sáng rọi vào. Cho nên người bệnh có xu hướng sợ và tránh những nơi có nhiều ánh sáng mặt trời.
Virus tấn công khiến kết mạc mắt bị tổn thương làm người bệnh cảm giác cộm mắt giống như có vật lạ bám lên bề mặt nhãn cầu.
Ở một số người bệnh đau mắt đỏ, ngoài các biểu hiện tại mắt còn xuất hiện triệu chứng cảm lạnh, cảm cúm hoặc nhiễm trùng đường hô hấp. Đây là những biểu hiện đi kèm với bệnh đau mắt đỏ do virus nhưng không thường gặp, sẽ dần thuyên giảm.
Đau mắt đỏ gây ra bởi virus thường có biểu hiện là ban đầu xuất hiện ở một bên mắt. Nếu người bệnh không kịp thời có những biện pháp phòng ngừa và điều trị, bệnh có thể lan sang mắt còn lại.
Các triệu chứng viêm kết mạc do virus thường sẽ dần giảm bớt sau 5 – 7 ngày. Tuy nhiên, bạn cần nhanh chóng đến bệnh viện khám và điều trị kịp thời khi nhận thấy các biểu hiện sau:
Virus gây bệnh tấn công giác mạc gây kích thích nhãn cầu, giác mạc làm cơ thể mi bị co thắt dẫn đến các cơn đau dữ dội, nghiêm trọng hơn khi tiếp xúc với ánh sáng.
Một số loại virus gây bệnh đau mắt đỏ thuộc họ Enterovirus có thể gây ra tình trạng viêm kết mạc chảy máu khiến mắt có màu đỏ như máu. Ngoài ra, bệnh còn có thể đi kèm với các triệu chứng như sưng phù mí mắt, sốt, đau nhức cơ, mệt mỏi. Người bệnh cần đến bệnh viện có chuyên khoa Mắt để khám sớm khi gặp tình trạng này.
Bệnh đau mắt đỏ do virus làm tăng tiết dịch mủ (còn gọi là gỉ mắt hay ghèn), xuất hiện nhiều sau khi ngủ dậy. Dịch mủ đóng dày đặc gây kết dính 2 mí mắt, khiến mắt khó mở ra.
Nhạy cảm với ánh sáng là một dấu hiệu thường gặp ở người bệnh viêm kết mạc do virus. Trên bề mặt nhãn cầu có nhiều dây thần kinh cảm giác. Virus tấn công vào kết mạc làm kích thích cực độ các dây thần kinh khiến mắt trở nên nhạy cảm, thậm chí đau nhức dữ dội khi nhìn vào ánh sáng.
Virus xâm nhập kết mạc gây viêm, làm người bệnh bị mờ mắt, tầm nhìn hạn chế. Trường hợp thị lực giảm nghiêm trọng cần đến bệnh viện khám ngay, tránh nguy cơ loét giác mạc dẫn đến mù lòa.
Có. Bệnh viêm kết mạc gây ra bởi virus tuy có thể tự khỏi mà không cần điều trị nhưng có khả năng biến chứng như hình thành sẹo, làm người bệnh bị mờ mắt, giảm tầm nhìn.
Bệnh đau mắt đỏ ít biến chứng nhưng không hoàn toàn không có nguy cơ. Trong đó, đau mắt đỏ do virus có nguy cơ biến chứng cao nhất. Người bệnh có thể bị viêm loét giác mạc, thậm chí mù lòa. [4]
Nếu các biểu hiện bệnh không có dấu hiệu thuyên giảm sau 5 – 7 ngày, người bệnh nên đến bệnh viện có chuyên khoa Mắt để khám sớm và có phương án điều trị phù hợp và an toàn, giảm nguy cơ phát sinh biến chứng không mong muốn.
Có. Bệnh viêm kết mạc do virus có tốc độ lây lan nhanh, dễ bùng phát thành dịch, nhất là trong các tháng mưa nhiều.
Bệnh viêm kết mạc do virus thường tự khỏi được nhưng có nguy cơ biến chứng nguy hiểm. Do đó, người bệnh không nên tự chẩn đoán và điều trị tại nhà mà nên đến bệnh viện có chuyên khoa Mắt để bác sĩ chẩn đoán và điều trị đúng cách. Thông thường, bác sĩ chẩn đoán bệnh viêm kết mạc do virus thông qua quan sát các biểu hiện lâm sàng như [5]:
Bên cạnh đó, bác sĩ sẽ thăm hỏi về tiền sử bệnh, hỏi xem người bệnh có tiếp xúc với người bị nhiễm trùng mắt gần đây hay không. Nếu tình trạng viêm kết mạc ngày càng nghiêm trọng, bác sĩ có thể thực hiện xét nghiệm dịch tiết để xác định tác nhân gây bệnh.
Bệnh đau mắt gây ra bởi các loại virus thường tự khỏi. Mục đích điều trị nhằm giảm các triệu chứng bệnh. Thời gian xử lý hết các biểu hiện viêm kết mạc có thời kéo dài trong 3 tuần.
Chườm mát hoặc chườm ấm bằng khăn ướt sạch lên vùng quanh mắt có thể giúp làm dịu các triệu chứng của bệnh đau mắt đỏ do virus. Ngoài ra, người bệnh không tự ý đắp các loại lá lên mắt theo kinh nghiệm dân gian, truyền miệng, tránh nguy cơ bệnh trầm trọng hơn.
Ở người bệnh đau mắt đỏ, dịch tiết và nước mắt có chứa virus gây bệnh. Do đó, việc giữ vệ sinh mắt là cần thiết trong việc làm triệu chứng, giảm nguy cơ lây nhiễm cho mắt còn lại và cho người khác.
Người bệnh cần chú ý thực hiện vệ sinh theo hướng dẫn của bác sĩ, không dùng chung đồ dùng cá nhân, thuốc nhỏ mắt, khăn, ga giường với người khác. Ngoài ra, cần thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, vệ sinh tay bằng dung dịch sát trùng chuyên dụng và tuyệt đối không chạm tay lên mắt.
Hầu hết thuốc nhỏ đau mắt đỏ hiện nay có tác dụng điều trị bệnh do vi khuẩn, không có tác dụng khi nguyên nhân là virus. Tuy nhiên, sử dụng thuốc nhỏ mắt đỏ có thể giúp giảm triệu chứng bệnh đau mắt đỏ do virus nếu người bệnh sử dụng đúng loại thuốc.
Không ít người bệnh đau mắt đỏ thường tự ý mua thuốc nhỏ kháng sinh để điều trị. Loại thuốc nhỏ này chỉ có tác dụng với trường hợp đau mắt đỏ do vi khuẩn gây ra. Thực tế, những trường hợp đau mắt đỏ do vi khuẩn không nhiều, thường do virus. Việc dùng thuốc nhỏ kháng sinh khi bị đau mắt đỏ do virus có thể khiến tình trạng bệnh nghiêm trọng hơn.
Chính vì vậy, người bệnh nên đến bệnh viện có chuyên khoa Mắt để chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh có thực sự đúng do virus gây ra hay do các tác nhân khác như vi khuẩn, dị ứng… Từ đó, bác sĩ kê đơn thuốc nhỏ đau mắt đỏ phù hợp. Người bệnh không tự ý mua thuốc điều trị, tránh nguy cơ dùng sai thuốc, gây biến chứng không muốn.
Bên cạnh điều trị thì việc chủ động phòng ngừa bệnh đau mắt đỏ có vai trò quan trọng không chỉ trong việc bảo vệ bản thân khỏi nguy cơ mắc bệnh, mà còn giúp ngăn chặn nguy cơ lây lan trong cộng đồng. Một số biện pháp hữu hiệu giúp phòng ngừa virus đau mắt đỏ lan rộng gồm:
Đau mắt đỏ có thể do nhiều tác nhân khác nhau gây ra. Virus chỉ là một trong nhiều tác nhân gây bệnh. Do đó người bệnh đau mắt đỏ không nên tự điều trị tại nhà bởi có thể dùng thuốc không đúng với nguyên nhân gây bệnh.
Nếu nhận thấy mắt bị đau, sưng phù, đỏ, chảy nhiều dịch… bạn có thể đến khám tại khoa Mắt, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM để bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân và hướng dẫn cách điều trị đúng và hiệu quả.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Với những chia sẻ về bệnh đau mắt đỏ do virus trên, hy vọng đã mang đến cho bạn đọc những thông tin hữu ích trong việc phòng và điều trị bệnh đau mắt đỏ, không chỉ cho cá nhân mà còn cho người thân của mình.