Suy tim tâm trương là tình trạng tim bị suy giảm khả năng giãn nở. Tỷ lệ bệnh nhân bị suy tim tâm trương có sự gia tăng song song với sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và điều trị vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong bài viết dưới đây, ThS.BS.CKII Huỳnh Thanh Kiều, Trung tâm Tim mạch, BVĐK Tâm Anh TP.HCM sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về suy tim tâm trương về nguyên nhân, triệu chứng, phương pháp điều trị và phòng ngừa bệnh.
Suy tim tâm trương hay suy tim có phân suất máu bảo tồn (EF ≥ 50%), là tình trạng buồng tim dưới bên trái (tâm thất trái) không thể đổ đầy máu đúng cách trong giai đoạn tâm trương, làm giảm nhịp tim và giảm lượng máu bơm đi nuôi cơ thể. Giai đoạn tâm trương là khi tim thư giãn và tràn đầy máu.
Suy tim tâm trương xảy ra nếu thất trái hoặc cả thất phải bị tái cấu trúc, dày lên và giãn ra, tăng độ cứng của buồng thất và mạch máu. Đây là tình trạng viêm và rối loạn chức năng nội mạc, dần dần làm suy giảm dự trữ tim, mạch máu tiến triển dần thành suy tim nhưng phân suất tống máu vẫn trong giới hạn bình thường. (1)
Suy tim phổ biến nhất ở người lớn tuổi. Thống kê cho thấy, suy tim ảnh hưởng đến khoảng 1/100 người trên 50 tuổi và con số này tăng gấp đôi sau mỗi 10 năm. Những người có các yếu tố nguy cơ như huyết áp cao, béo phì, bệnh tiểu đường, bệnh động vành có nguy cơ bị suy tim tâm trương hơn.
Khi một người già đi, tim và mạch máu trở nên kém đàn hồi hơn và dễ bị xơ cứng. Vì vậy, suy tim tâm trương phổ biến hơn ở những người lớn tuổi. Ngoài nguyên nhân do lão hóa thông thường, các nguyên nhân phổ biến nhất gây suy tim tâm trương là:
Rung nhĩ là dạng rối loạn nhịp tim phổ biến và nguy hiểm nhất, thường xảy ra ở người lớn tuổi, tuy nhiên bệnh đang có xu hướng ngày càng trẻ hóa. Bệnh làm tăng nguy cơ sa sút trí tuệ 13%, suy tim gấp 2 lần và đột quỵ gấp 5 lần. (2)
Khi bị tăng huyết áp, tim phải làm việc nhiều hơn để bơm thêm máu đi khắp cơ thể. Theo thời gian khiến cơ tim trở nên dày hơn hoặc to hơn, cuối cùng cơ tim trở nên cứng lại và giãn nở các máu trong tim, làm giảm khả năng đổ đầy máu và dẫn đến suy tim tâm trương.
Đái tháo đường có nguy cơ tiến triển bệnh tim mạch rất lớn. Đường huyết cao làm cứng các mạch máu và giảm tính đàn hồi của tim, gây ra suy tim tâm trương.
Ở bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành, mảng xơ vữa gây hẹp hoặc tắc nghẽn các mạch máu chính cung cấp cho tim, khiến lưu lượng máu đến tim bị giảm đi. Bệnh mạch vành có thể gây biến chứng thiếu máu cục bộ cơ tim kéo dài hoặc sau nhồi máu cơ tim, làm tim to, co bóp kém, hở van tim, dẫn đến suy tim.
Béo phì là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây tăng huyết áp, bệnh mạch vành và phì đại thất trái, là những yếu tố nguy cơ tiến triển suy tim. Nghiên cứu Framingham trên 5.881 người cho thấy suy tim tăng 5% ở nam giới, 7% ở nữ giới đối với mỗi 1 đơn vị BMI tăng sau hiệu chỉnh yếu tố rủi ro khác. (3)
>> Xem thêm: Tiêu chuẩn Framingham chẩn đoán suy tim cần những tiêu chí gì?
Chứng ngưng thở khi ngủ cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch như: huyết áp cao, đột quỵ, suy tim, bệnh tim và nhịp tim bất thường. Đặc biệt, suy tim và đột quỵ là biến chứng nguy hiểm do chứng ngưng thở khi ngủ gây ra, có tỷ lệ tử vong cao.
Suy thận mạn tính có thể ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận của cơ thể. Các vấn đề về tim và mạch máu, thiếu máu, suy tim là biến chứng nghiêm trọng của bệnh suy thận mạn tính.
Nhận biết triệu chứng suy tim tâm trương là một yếu tố quan trọng giúp phát hiện và điều trị sớm, ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm của bệnh.
Đây là một trong những dấu hiệu thường gặp ở bệnh nhân suy tim, bao gồm cả suy tim tâm thu và suy tim tâm trương. Người bệnh cảm thấy khó thở, thở khò khè, nhất là khi vận động gắng sức, leo cầu thang hoặc khuân vác vật nặng.
Chóng mặt có thể là biểu hiện của nhiều tình trạng sức khỏe khác nhau. Tuy nhiên, nếu thường xuyên chóng mặt, ngất xỉu, có thể là triệu chứng của suy tim, người bệnh nên đến gặp bác sĩ để kiểm tra và điều trị sớm.
Suy tim ở mức độ 1 (theo phân độ NYHA), người bệnh có thể không có triệu, các hoạt động thể chất cũng chưa bị ảnh hưởng. Tuy nhiên từ suy tim độ 2 trở đi, người bệnh bắt đầu có biểu hiện của bệnh như cơ thể luôn mệt mỏi kéo dài. Biểu hiện này càng rõ hơn khi suy tim chuyển sang độ 3 và nghiêm trọng hơn ở độ 4.
Ở bệnh nhân suy tim, tim không thể bơm đủ máu qua động mạch và đưa máu quay trở lại tĩnh mạch, dẫn đến tăng áp lực trong mạch máu. Khi đó, lượng máu dư thừa và các chất lỏng khác trong mao mạch có thể rò rỉ vào các mô của cơ thể, gây phù nề. Bàn chân, mắt cá chân, bụng là những vị trí thường bị phù do suy tim.
Nguyên nhân là do cơ thể bị tích nước gây phù nề, khiến người bệnh phải đi tiểu thường xuyên. Trong trường hợp người bệnh đang được chỉ định dùng thuốc để điều trị suy tim, có thể khiến tần suất đi tiểu tăng lên do sử dụng thuốc lợi tiểu.
Triệu chứng ho thường xuất hiện nặng hơn vào ban đêm, khi nằm ngủ. Người bệnh có thể ho dai dẳng, ho ra máu hoặc bọt hồng.
Khi bị suy tim, hệ thống tim mạch không đáp ứng đủ lượng máu mà các tế bào cần, khiến người bệnh dễ bị mệt mỏi, khó thở. Tình trạng này làm ảnh hưởng đến các hoạt động thể chất cũng như sinh hoạt hằng ngày của người bệnh. Suy tim càng nặng, mức độ hoạt động thể chất càng giảm.
Suy tim tâm trương có nguy hiểm không tùy thuộc vào nguyên nhân, mức độ nghiêm trọng của bệnh, nguy cơ dẫn đến biến chứng cũng như tình trạng sức khỏe tổng thể của mỗi bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu không được phát hiện và điều sớm, suy tim tâm trường có thể dẫn đến các biến chứng như: thiếu máu, rung tâm nhĩ, hội chứng suy mòn do tim, suy giảm chức năng thận, ứ trệ tĩnh mạch chân và loét, đột quỵ.
Suy tim là một bệnh lý nguy hiểm bởi đây là diễn biến cuối cùng của hầu hết các bệnh tim mạch. Người bệnh có thể bị suy giảm hoặc mất hoàn toàn sức lao động và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của suy tim nhiều hay ít còn phụ thuộc vào các yếu tố nguy cơ gây bệnh và quan trọng nhất là sự đáp ứng của bệnh nhân với các phương pháp điều trị.
Các biến chứng của suy tim tâm trương có thể dẫn đến các tình trạng khác, bao gồm:
Thiếu máu xảy ra khi có sự thiếu hụt lượng hồng cầu mới được tạo ra tương đối so với lượng hồng cầu già bị chết đi. Thiếu máu thiếu sắt hiện diện ở < 30% bệnh nhân suy tim mạn tính, nghĩa là đa số bệnh nhân là thiếu máu đẳng bào, thường được xem là thiếu máu của bệnh lý mạn tính.
Suy tim làm tăng áp lực đổ đầy, rối loạn chức năng tâm thu, gây hở van hai lá, kích hoạt thần kinh thể dịch, làm tăng sức căng tâm nhĩ, gây xơ hóa tâm nhĩ và tái cấu trúc. Tình trạng này có thể dẫn đến rung nhĩ và khiến rung nhĩ ngày càng tiến triển nặng hơn.
Suy tim có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa cơ và mỡ. Bệnh nhân suy tim ở giai đoạn cuối có thể bị giảm cân nhiều và giảm khối lượng cơ bắp trong thời gian ngắn.
Suy tim có thể khiến lưu lượng máu đến thận giảm, lâu ngày làm tổn thương thận, nguy cơ dẫn đến suy thận. Khi thận không được cung cấp đầy đủ máu sẽ khiến chức năng lọc máu, đào thải độc tố, muối và nước cũng bị suy giảm, gây tăng huyết áp và phù nề. Tổn thương thận do suy tim có thể cần phải lọc máu để điều trị.
Khi bị suy tim, máu khó quay trở lại tim thông qua tĩnh mạch, gây nên tình trạng ứ trệ máu trong các mô và cơ quan, điển hình là ở chân. Do đó, bệnh nhân suy tim thương bị sưng phù chân, mắt cá chân.
Rối loạn nhịp tim là một trong những biến chứng hàng đầu của suy tim. Rối loạn nhịp tim có thể làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối. Nếu cục máu đông di chuyển theo dòng máu và làm tắc động mạch cung cấp máu cho não dẫn đến đột quỵ.
Chẩn đoán suy tim tâm trương dựa trên 4 tiêu chuẩn:
Xét nghiệm máu có thể đo nồng độ cholesterol, mức đường huyết, và các chỉ số khác, từ đó giúp bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân, tiên lượng và theo dõi điều trị suy tim.
Chụp X-quang ngực cho thấy hình ảnh rõ ràng về tim và phổi, hình ảnh bóng tim to, sung huyết phổi, tràn dịch màng phổi, giúp bác sĩ phát hiện các vấn đề về van tim và lỗ thủng trong tim.
Khi các xung điện điều phối sự co bóp của tim có sự thay đổi, có thể là dấu hiệu của nhiều bệnh lý liên quan đến tim mạch. Qua đo điện tâm đồ, có thể giúp phát hiện được tình trạng dày giãn buồng tim, rối loạn nhịp tim…
Đây là phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng quan trọng giúp phát hiện các bất thường về cấu trúc, chức năng và các bệnh lý ở tim. Siêu âm tim có thể giúp bác sĩ đo phân suất tống máu, xem xét kích thước và chức năng của tim.
Người bệnh sẽ được áp dụng nghiệm pháp gắng sức bằng xe đạp nếu đủ thể lực để đáp ứng quá trình đạp xe. Bác sĩ có thể đánh giá được tình trạng tim đang hoạt động như thế nào, tìm khả năng mắc bệnh động mạch vành, chỉ ra mức độ nghiêm trọng của bệnh van tim (nếu có) và kiểm tra hoạt động của tim. Thuốc Dobutamine được truyền qua đường tĩnh mạch trong trường hợp bệnh nhân không thể đạp xe để kiểm tra gắng sức.
Điện sinh lý tim là một phương pháp thông tim đặc biệt, nhằm phân tích một cách có hệ thống các hiện tượng điện sinh lý tim ở bệnh nhân trong tình trạng cơ sở và đáp ứng của tim với các kích thích điện có chương trình. Thăm dò điện sinh lý tim giúp phát hiện các rối loạn nhịp chậm, rối loạn nhịp nhanh và ngất.
Khi thực hiện thủ thuật, một ống thông rỗng ruột (catheter) sẽ được luồn qua các mạch máu và đến tận tim, giúp bác sĩ có thể quan sát rõ, đánh giá tổn thương giải phẫu – sinh lý của tim mạch và các thông số huyết động học gồm: áp lực buồng tim, áp lực mạch máu, cung lượng tim và độ bão hòa oxy.
Người bệnh có thể sống nhiều năm sau khi được chẩn đoán mắc bệnh suy tim tâm trương. Tuy nhiên, người bệnh cần phải tuân đúng theo phác đồ điều trị suy tim tâm trương dài hạn của bác sĩ để giúp kiểm soát tình trạng bệnh.
Tất cả bệnh nhân tim mạch đều được khuyến khích điều chỉnh lối sống lành mạnh bao gồm:
Một số bệnh nền có thể làm tăng nguy cơ suy tim hoặc khiến suy tim trở nặng hơn như tăng huyết áp, béo phì, đái tháo đường… Vì vậy, người bệnh cần kết hợp điều trị suy tim với kiểm soát các bệnh nền.
Các loại thuốc điều trị suy tim sẽ được chỉ định tùy thuộc vào nguyên nhân, triệu chứng và giai đoạn của từng người bệnh.
Mặc dù không thể ngăn ngừa hoàn toàn suy tim tâm trương, nhưng bạn có thể thực hiện các biện pháp giúp giảm những yếu tố nguy cơ hoặc làm nghiêm trọng hơn suy tim tâm trương bao gồm:
Theo dữ liệu theo dõi của 55.959 người được chẩn đoán mắc bệnh suy tim tâm trương tại Anh từ năm 2000 đến năm 2017 cho thấy: Tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân suy tim tâm trương sau một năm là hơn 75% và hơn 12% bệnh nhân có thể sống lâu hơn 15 năm. (4)
Mặc dù suy tim tâm trương không thể chữa khỏi nhưng điều trị sớm có thể giúp giảm bớt các triệu chứng và cải thiện khả năng bơm máu của tim, từ đó giúp làm chậm tiến triển, ngăn ngừa biến chứng và nâng cao chất lượng đời sống cho người bệnh.
Không thể trả lời chính xác suy tim tâm thu hay suy tim tâm trương nghiêm trọng hơn mặc dù đã có nhiều nghiên cứu. Vì có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả như tuổi tác, tình trạng hút thuốc lá, các bệnh lý nền đi kèm… Do đó, các chuyên gia cho rằng cả hai loại suy tim này đều có khả năng gây nguy hiểm cho sức khỏe người bệnh và nên có kế hoạch điều trị lâu dài để ngăn ngừa biến chứng.
Người bệnh nên đến gặp bác sĩ để thăm khám suy tim sớm nếu có các triệu chứng như đau ngực, khó thở, mệt nhiều khi gắng sức, ho, bị phù, chóng mặt, ngất xỉu… Bên cạnh đó, những người có yếu tố nguy cơ suy tim như bệnh mạch vành, tăng huyết áp, hút thuốc lá, đái tháo đường, tuổi cao… nên đến bệnh viện thăm khám sức khỏe định kỳ, giúp tầm soát và phát hiện, điều trị bệnh sớm.
Người bệnh nên đến cơ sở y tế uy tín, có chuyên khoa Tim mạch để thăm khám và điều trị suy tim cũng như các bệnh lý về tim mạch. Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh triển khai phòng khám Suy tim thăm khám chuyên sâu, theo dõi chặt chẽ, chăm sóc toàn diện cho bệnh nhân suy tim. Phòng khám có các bác sĩ, chuyên gia giàu kinh nghiệm cùng hệ thống máy móc hiện đại, giúp chẩn đoán nhanh chóng, chính xác và điều trị hiệu quả cho bệnh nhân suy tim cũng như các bệnh về tim mạch.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Suy tim tâm trương là một trong hai loại suy tim trái. Nguy cơ suy tim tâm trương tăng lên ở người cao tuổi, người mắc các bệnh tiềm ẩn như tiểu đường, tăng huyết áp. Suy tim tâm trương không có cách chữa trị khỏi hoàn toàn nhưng có thể kiểm soát các triệu chứng bệnh bằng cách thay đổi lối sống kết hợp dùng thuốc theo chỉ định.