Tại Hoa Kỳ, cứ 10 người trưởng thành có một người mắc bệnh ung thư tuyến giáp vi thể. Điều đáng nói, hầu hết các trường hợp chỉ phát hiện bệnh tình cờ thông qua kiểm tra vùng cổ ở một đợt khám nào đó. Ung thư tuyến giáp vi thể có nguy hiểm không và bệnh được điều trị như thế nào?

Ung thư tuyến giáp vi thể (microcarcinoma) là các khối ung thư tuyến giáp có kích thước nhỏ, dưới 1cm. Những khối u/nhân giáp này thường là ung thư tuyến giáp thể nhú, một loại ung thư tuyến giáp phổ biến nhất.
Tuyến giáp là một tuyến nội tiết lớn của cơ thể có hình giống con bướm, nằm ở phía trước cổ, bên dưới thanh quản và bên trên khí quản. Tuyến giáp đảm nhận vai trò sản xuất các hormone tuyến giáp, tiết vào máu và vận chuyển đến tất cả các mô trong cơ thể. Hormone tuyến giáp giúp cơ thể sử dụng năng lượng, giữ ấm và duy trì hoạt động bình thường của não, tim, cơ bắp và các cơ quan khác. (1)
Theo bác sĩ Vinh, nhân giáp là một tình trạng thường gặp, hầu hết mọi người đều phát triển các nhân giáp nhỏ (kích thước dưới 1cm), được phát hiện tình cờ thông qua siêu âm khi bước vào tuổi 65. Phần lớn các nhân giáp không cần khảo sát thêm, trong đó các nhân giáp có kích thước dưới 5-6mm hầu như không cần theo dõi thêm, còn các nhân giáp có kích thước 7-10mm nếu có các đặc điểm nghi ngờ sẽ cần sinh thiết bằng kim nhỏ (FNA – fine needle aspiration).

Ung thư tuyến giáp vi thể khá phổ biến, thống kê cho thấy cứ 10 người trưởng thành tại Hoa Kỳ sẽ có một người mắc bệnh. Đa số người bệnh không biết mình có khối vi ung thư tuyến giáp vì chúng không gây triệu chứng, hầu như chỉ được phát hiện tình cờ thông qua các khảo sát vùng cổ trong một đợt thăm khám nào đó.
Tiên lượng của bệnh rất tốt, tuy nhiên vì là “ung thư” nên vẫn gây lo lắng đáng kể cho người bệnh.
Bác sĩ Vinh cho biết, ung thư tuyến giáp vi thể là loại ung thư tuyến giáp thể nhú phổ biến, có tiên lượng tốt nhất trong các loại ung thư tuyến giáp. Theo thống kê, chỉ 10% nguy cơ khối u phát triển to ra khoảng 3mm trong vòng 10 năm, nghĩa là khoảng 90% khối u kích thước nhỏ không phát triển. Hay chỉ 4% nguy cơ xảy ra di căn hạch vùng cổ trong vòng 10 năm, nghĩa là khoảng 96% khối u không di căn. Nguy cơ tử vong do một loại ung thư tuyến giáp kích thước nhỏ là rất thấp, ước tính dưới 1/1.000 người bệnh.
Tuy nhiên, người bệnh không nên vì thế mà chủ quan, hãy tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ ngay khi phát hiện bởi việc trì hoãn có thể làm mất đi cơ hội chữa bệnh hiệu quả. (2)
Đầu tiên, bác sĩ sẽ kiểm tra vùng cổ của người bệnh để phát hiện những thay đổi bất thường trong tuyến giáp. Đồng thời, bác sĩ sẽ hỏi thêm một số yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến giáp hoặc quá khứ có tiếp xúc với bức xạ.
Để cho kết quả chẩn đoán chính xác, bác sĩ có thể chỉ định người bệnh thực hiện một số xét nghiệm như:
Phần lớn các khối vi ung thư tuyến giáp không gây ra nguy cơ sức khỏe đáng kể trong suốt cuộc đời người bệnh. Có hai hướng điều trị bệnh lý này là phẫu thuật hoặc theo dõi chủ động.
Phẫu thuật điều trị ung thư tuyến giáp vi thể thường bao gồm cắt thùy tuyến giáp chứa khối u. Các hạch bạch huyết xung quanh tuyến giáp không được nạo trừ khi chúng có biểu hiện phì đại hoặc nghi ngờ trên siêu âm vùng cổ, hoặc được phát hiện trong lúc mổ.
Tỷ lệ sống còn sau phẫu thuật trên 99%. Nguy cơ tái phát sau phẫu thuật tuyến giáp rơi vào khoảng 2-4%, thường gặp ở thùy tuyến giáp còn lại hoặc các hạch vùng cổ giữa xung quanh tuyến giáp. Kích thước các hạch này có thể quá nhỏ để có thể phát hiện trong lần mổ đầu tiên hoặc chưa chắc sẽ phát triển, nếu có phát triển cũng sẽ tiến triển rất chậm. Nguy cơ di căn xa ngoài vùng cổ của bệnh này rất thấp, dưới 1%.
Phần lớn người bệnh không cảm thấy thay đổi nhiều dù có tuyến giáp hay không. Một số người bệnh cần điều chỉnh liều hormone tuyến giáp vài lần mới đạt được cảm giác ổn định. Một tỷ lệ nhỏ người bệnh vẫn còn than phiền về tình trạng tăng cân, mệt mỏi, rối loạn cảm xúc hoặc giảm trí nhớ dù các chỉ số hormone tuyến giáp nằm trong giới hạn bình thường.
Không phải mọi trường hợp mắc bệnh đều cần phẫu thuật ngay tại thời điểm chẩn đoán. Dữ liệu gần đây cho thấy khoảng 5-10% khối u có thể tăng kích thước hoặc di căn hạch cổ trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, không có ca tử vong nào được ghi nhận trong nhóm theo dõi chủ động, cũng như không có người bệnh nào bị di căn xa ra ngoài vùng cổ trong quá trình theo dõi.
Nghiên cứu cho thấy, độ tuổi của người bệnh cũng ảnh hưởng đến nguy cơ tiến triển của bệnh, cụ thể là:
Người trẻ tuổi cần theo dõi lâu dài hơn. Một số người bệnh trẻ tuổi chọn phẫu thuật sớm, trong khi số khác lại hoãn phẫu thuật để không ảnh hưởng đến những sự kiện quan trọng khác trong cuộc đời như tốt nghiệp, đám cưới…
Thai kỳ cũng là một yếu tố có thể kích thích nhẹ sự phát triển của các nhân giáp hoặc ung thư giáp, nhưng đa số các trường hợp không có thay đổi kích thước trong thai kỳ. Một số phụ nữ chọn phẫu thuật sớm trước khi mang thai, nhưng một số khác lại chấp nhận theo dõi khi hiểu rằng ảnh hưởng của thai kỳ là tối thiểu.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng phù hợp với theo dõi chủ động. Những khối u nằm gần các cấu trúc quan trọng như dây thần kinh quặt ngược thanh quản nên được xem xét phẫu thuật sớm, vì nếu khối u phát triển có thể gây ảnh hưởng đến giọng nói.
Khi theo dõi chủ động, người bệnh cần:
Số lần tái khám của người bệnh chọn theo dõi chủ động sẽ nhiều hơn so với người bệnh chọn phẫu thuật ngay từ đầu. Chi phí theo dõi có thể bằng hoặc thậm chí cao hơn chi phí phẫu thuật tùy thuộc vào bảo hiểm và độ tuổi của người bệnh.
Mặc dù chương trình theo dõi không gây hại về thể chất, nhưng nhiều người bệnh vẫn cảm thấy lo lắng khi biết mình đang mang một căn bệnh ung thư trong người. Điều này khiến một số người chọn phẫu thuật ngay từ đầu, nhưng cũng có một số người chọn theo dõi bệnh chặt chẽ và chuyển sang phẫu thuật khi cần.
Bác sĩ Vinh nhắn nhủ, ung thư tuyến giáp vi thể hiếm khi phát triển hoặc di căn đến hạch vùng cổ. Không có trường hợp nào ghi nhận khối u di căn ngoài vùng cổ trong quá trình theo dõi chủ động. Không có người bệnh nào tử vong khi chọn theo dõi bệnh lý này… Các dữ liệu hiện tại cho thấy phẫu thuật sớm hay theo dõi chủ động đều là lựa chọn phù hợp, hiệu quả và an toàn nếu được quản lý, theo dõi sát sao bởi các chuyên gia – bác sĩ dày dặn kinh nghiệm.

Mặc dù phẫu thuật điều trị bệnh được đánh giá rất an toàn nếu được thực hiện bởi phẫu thuật viên có kinh nghiệm, nhưng vẫn tồn tại một số biến chứng cần lưu ý, bao gồm:
Nguy cơ chung của mọi phẫu thuật:
Đặc thù của phẫu thuật tuyến giáp:
Cả hai biến chứng kể trên có thể chỉ là tạm thời, nhưng cũng có thể là vĩnh viễn. Tuy nhiên, trường hợp vĩnh viễn là rất hiếm nếu người bệnh được phẫu thuật bởi các chuyên gia chuyên sâu về tuyến giáp.
Thời gian hồi phục trung bình sau phẫu thuật là 5-7 ngày. Tuy nhiên, một số người bệnh có thể cảm thấy chưa trở lại bình thường cho đến 8 tuần sau phẫu thuật. Nhìn chung thời gian hồi phục phụ thuộc vào:
Khoảng 50% người bệnh cắt một thùy tuyến giáp sẽ cần uống hormone thay thế. 100% người bệnh cắt toàn bộ tuyến giáp bắt buộc phải sử dụng levothyroxine suốt đời.
Sau phẫu thuật tuyến giáp, người bệnh cần được theo dõi suốt đời gồm xét nghiệm máu hàng năm để đánh giá hormone tuyến giáp và siêu âm tuyến giáp định kỳ, thường là mỗi 5 năm.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Trên đây là thông tin tổng quan về ung thư tuyến giáp vi thể. Lưu ý rằng những thông tin trên đây không thay thế cho chỉ định điều trị của bác sĩ. Nếu có bất kỳ lo lắng nào, người bệnh có thể đến ngay Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh để được các chuyên gia – bác sĩ tư vấn cụ thể bởi việc trì hoãn có thể làm mất đi cơ hội chữa bệnh hiệu quả!