Xét nghiệm đông máu được dùng để chẩn đoán một số bệnh như máu khó đông hoặc tăng đông máu. Vậy các xét nghiệm đông máu được thực hiện như thế nào? Khi nào cần thực hiện xét nghiệm này? Hãy cùng tìm hiểu qua chia sẻ của bác sĩ CKI Lý Gia Cường, khoa Cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM.

Xét nghiệm đông máu (coagulation test) là xét nghiệm đo lường khả năng và thời gian đông máu của cơ thể, giúp bác sĩ đánh giá nguy cơ khó đông máu, rối loạn đông máu hoặc khả năng hình thành huyết khối (cục máu đông) trong mạch máu.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đông máu như mạch máu, tiểu cầu và các yếu tố đông máu huyết tương. Khi bị thương, phản ứng đầu tiên của cơ thể là co mạch để hạn chế quá trình mất máu. Tín hiệu hóa học từ vết thương sẽ được gửi đi để cơ thể giải phóng các yếu tố đông máu.
Tiểu cầu sẽ tập trung tại vết thương tạo thành nút tiểu cầu, tạm thời hạn chế quá trình chảy máu (đông máu nguyên phát). Sau đó, một loạt các phản ứng dây chuyền phức tạp sẽ diễn ra với nhiều protein, enzyme để tạo ra máu đông bịt kín vết thương (đông máu thứ phát).

Đông máu được chia thành 3 đường: ngoại sinh, nội sinh và chung. Khi xảy ra chảy máu, các yếu tố đông máu (factor) lần lượt tác động lên nhau theo dây chuyền, kết quả cuối cùng là sợi huyết (fibrin) giúp hình thành cục máu đông.
Sự đông máu bắt đầu khi máu tiếp xúc với yếu tố mô (tissue factor), kích hoạt chuỗi các yếu tố VII, X, V tạo thành thrombin từ prothrombin. Thrombin là chất xúc tác để tạo thành sợi huyết (từ fibrinogen), giúp củng cố, ổn định nút tiểu cầu và cầm máu.

Rối loạn đông máu có thể gây nguy hiểm cho người mắc. Các bệnh có thể dẫn đến tình trạng rối loạn đông máu bao gồm:
Bác sĩ thường chỉ định xét nghiệm đông máu trong các trường hợp: (1)
Hiện có nhiều phương pháp xét nghiệm đông máu khác nhau, dưới đây là một số loại phổ biến.
Xét nghiệm công thức máu giúp xác định số lượng tế bào thành phần máu trong cơ thể như hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu,… Số lượng tế bào vượt ngưỡng hay thấp hơn mức trung bình đều biểu hiệu vấn đề sức khỏe. Thông thường, khả năng đông máu sẽ giảm nếu lượng tiểu cầu trong máu ít đi. Xét nghiệm máu toàn bộ còn có thể được dùng khi chẩn đoán các tình trạng thiếu máu, nhiễm trùng, ung thư,…
Xét nghiệm PT giúp đánh giá hoạt động của đường đông máu ngoại sinh và đường chung. Trong quá trình đông máu, prothrombin sẽ được chuyển hóa thành thrombin nhờ các yếu tố đông máu. Sau đó thrombin tác động biến đổi fibrinogen thành fibrin (kết hợp với tiểu cầu tạo tạo thành cục máu đông). Xét nghiệm Prothrombin dùng để đánh giá tổng thể quá trình đông máu của các yếu tố đông máu I, II, V, VII, X.
Xét nghiệm APTT giúp đánh giá đường đông máu nội sinh và đường chung. Thromboplastin là một loại enzyme được giải phóng từ các tế bào bị tổn thương, có tác dụng chuyển hóa prothrombin thành thrombin trong giai đoạn đầu của quá trình đông máu. Xét nghiệm APTT đo thời gian cần thiết để tạo ra fibrin từ khi bắt đầu quá trình đông máu. Các yếu tố đông máu được đánh giá trong xét nghiệm APTT gồm I, II, V, X, VIII, IX, XI, XII.
Fibrinogen (hay yếu tố I) là một trong 13 yếu tố tham gia quá trình đông máu. Fibrinogen chịu trách nhiệm quan trọng (tạo thành sợi huyết – fibrin) trong đông máu, thiếu hoặc thừa đều có thể làm rối loạn quá trình đông máu. Xét nghiệm này thường được dùng để đánh giá lượng fibrinogen trong máu, thông thường khoảng 2-4 gram trong mỗi lít máu.
Tiểu cầu có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình tự cầm máu của cơ thể. Tiểu cầu thường được đánh giá ở 2 mặt là số lượng và chức năng tiểu cầu. Lượng tiểu cầu trung bình trong cơ thể có thể dao động từ 150-450 tỷ tế bào tiểu cầu trong 1 lít máu.
>> Tìm hiểu thêm về xét nghiệm tiểu cầu bằng: Công thức máu PLT

Bác sĩ có thể thực hiện các xét nghiệm đông máu trong một số trường hợp như:
Nhìn chung, các xét nghiệm đông máu đều an toàn nhờ kỹ thuật đơn giản, nhanh chóng và không yêu cầu sử dụng thêm các loại thuốc khác. Thông thường, bác sĩ chỉ cần lấy một lượng nhỏ máu thông qua tĩnh mạch của người bệnh để thực hiện xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Lưu ý, đa số xét nghiệm máu đều yêu cầu không ăn trước khi thực hiện.
Ưu điểm của xét nghiệm đông máu là giúp phát hiện vấn đề sức khỏe mà không tốn nhiều thời gian hay ảnh hưởng đến sức khỏe như một số phương pháp chẩn đoán khác. Có thể dùng để xác định chính xác các bệnh liên quan đến đông máu như tăng đông máu hay khó đông máu. Ngoài ra, thời gian thực hiện ngắn, kỹ thuật đơn giản cũng là ưu điểm của các xét nghiệm máu.
Không thể dùng xét nghiệm đông máu để đánh giá bệnh trạng của các cơ quan trong cơ thể. Thông thường, xét nghiệm đông máu chỉ dùng để phát hiện dấu hiệu liên quan đến các bệnh cụ thể như ung thư gan, xơ gan, suy tủy, ung thư máu, thiếu yếu tố đông máu di truyền… Cần kết hợp thêm các phương pháp chẩn đoán khác để cho kết quả chính xác nhất.
Thông thường, trước khi thực hiện các xét nghiệm máu, người bệnh nên nhịn ăn 8-10 tiếng, tốt nhất là nhịn ăn sáng. Với các xét nghiệm đông máu, không cần thiết phải nhịn ăn sáng. Người được xét nghiệm vẫn cần nhịn ăn nếu xét nghiệm đông máu đi kèm với các xét nghiệm đánh giá chỉ số khác như đường huyết, mỡ máu.
Người được xét nghiệm cần thông báo cho bác sĩ tiền sử bệnh hoặc bất kỳ vấn đề sức khỏe nào đang mắc phải và các loại thuốc đang sử dụng để cho ra kết quả xét nghiệm chính xác nhất.
Kết quả xét nghiệm có thể bị ảnh hưởng nếu người được xét nghiệm:
Dưới đây là các bước cơ bản trong quy trình xét nghiệm đông máu cần tách huyết tương như xét nghiệm PT, APTT:
Với xét nghiệm định lượng fibrinogen, huyết tương sẽ được pha với thuốc thử, nước cất và được đo bởi thiết bị chuyên dụng.
Với xét nghiệm máu toàn bộ hoặc đánh giá tiểu cầu, máu sau khi được lấy sẽ được phân tích bởi máy phân tích thành phần máu.

Mỗi loại xét nghiệm sẽ cho một dạng kết quả khác nhau, có thể là thời gian đông máu hoặc số lượng yếu tố máu trong máu. Dưới đây là một số chỉ số cần lưu ý trong các xét nghiệm đông máu:
Kết quả xét nghiệm PT có thể đọc như sau:
Kết quả xét nghiệm APTT có thể đọc như sau:
Thông thường, các yếu tố II, V, VII, X tham gia trong quá trình đông máu ngoại sinh, các yếu tố VIII, IX, XI, XII tham gia trong quá trình đông máu nội sinh. Các yếu tố đông máu có hoạt tính thông thường là 50%-150%. Tùy theo loại bệnh mà các yếu tố đông máu nhất định sẽ giảm.
Số lượng tiểu cầu bình thường dao động từ 150-450 G/lít máu. Tương đương 150-450 tỷ tế bào tiểu trong một lít máu hoặc 150.000-450.000 tế bào tiểu cầu trong 1µl (micro lít) máu.
Fibrinogen trong huyết tương bình thường sẽ dao động từ 2-4gram/lít máu.
Câu trả lời là không. Các xét nghiệm máu bình thường như PT, APTT, Fibrinogen,… không yêu cầu người bệnh phải nhịn ăn.
Trung tâm Xét nghiệm, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh là lựa chọn hàng đầu khi khách hàng muốn thực hiện các xét nghiệm huyết học. Với đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, thông thạo kỹ thuật xét nghiệm cùng hệ thống máy móc tiên tiến. Kết quả xét nghiệm tại Trung tâm Xét nghiệm luôn đạt độ chính xác cao nhất.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Trên đây là những thông tin tổng quát về khái niệm, chức năng của xét nghiệm đông máu. Xét nghiệm đông máu thường được dùng phối hợp với các kỹ thuật chẩn đoán khác để phát hiện, xác định bệnh gây ảnh hưởng đến mức độ đông máu trong cơ thể.