HPV là một trong những tác nhân phổ biến gây ra các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở cả nam và nữ, với tỷ lệ lây nhiễm tới 40 – 60% sau khi quan hệ tình dục không an toàn. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hơn 200 tuýp HPV khác nhau, trong đó có 12 tuýp HPV nguy cơ cao, gây ra các dạng ung thư nguy hiểm. HPV 31 là một trong những tuýp HPV nguy cơ cao, liên quan mật thiết đến các bệnh lý sinh dục ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe. Vậy HPV type 31 gây ra những bệnh gì? Phòng ngừa bằng cách nào?
HPV 31 là một loại virus thuộc nhóm nguy cơ cao, khu trú và hoạt động sâu trong lớp da và các tế bào cơ bản của màng tế bào, với khả năng tiến triển tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. HPV 31 có bộ DNA tương đồng khoảng 70% với HPV 16 (chiếm 60% trường hợp ung thư cổ tử cung do HPV) nhưng HPV chủng 31 chỉ chiếm khoảng 4% trong tổng số các trường hợp. (1)
Theo nghiên cứu tại Hoa Kỳ năm 2019, phụ nữ từ 25 tuổi trở lên nhiễm HPV 31 có nguy cơ tổn thương tiền ung thư của tế bào biểu mô cổ tử cung CIN2+ (dị sản vừa) đến 12,1% và CIN3+ (dị sản nặng) lên đến 7,5%, so với tác nhân phổ biến gây ung thư cổ tử cung HPV 16 lần lượt là 11,6% và 8,1%. (2)
HPV (Human Papillomavirus Virus) là một thành viên họ Papovaviridae, không có vỏ bọc, đường kính khoảng 55nm, có hơn 200 tuýp được phát hiện, nhưng chỉ có khoảng 12 loại nguy cơ cao gây ra các trường hợp ung thư gây nguy hiểm bao gồm: 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58 và 59. Tỷ lệ nhiễm HPV nguy cơ cao trên toàn thế giới là 10,4% và có tới 36,5% ở các nước đang phát triển. (3)
Đối với HPV 31, có cấu trúc DNA đặc biệt và kiểu gen nội tại đặc trưng. Thông thường HPV 31 được tìm thấy ở cơ quan sinh dục bên, màng nhầy và trên da. Cơ chế lây nhiễm của HPV type 31 chủ yếu thông qua các đường quan hệ tình dục, tiếp xúc với niêm mạc, dịch tiết, và vết thương hở và lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở.
Theo thống kê, khoảng 80% nữ giới tiếp xúc với HPV vào một thời điểm nào đó trong đời, nhưng tình trạng nhiễm trùng này là tạm thời. Có đến 70 – 90% (4) người bị nhiễm HPV sẽ “loại bỏ” được virus trong vòng 12 – 24 tháng và chỉ một tỷ lệ nhỏ tiến triển thành các bệnh lý nghiêm torng5 như ung thư. Các biến thể di truyền và biểu sinh của virus thường có liên quan đến quá trình gây ung thư đối với các tuýp HPV nguy cơ cao khác, nhưng mọi người thường biết rất ít về HPV 31. Vậy chủng virus này gây ra những bệnh gì?
Ung thư cổ tử cung xâm lấn do virus u nhú ở người (HPV) gây ra, là loại ung thư phổ biến thứ 4 được chẩn đoán ở phụ nữ trên toàn thế giới và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở 42 quốc gia. Mặc dù tỷ lệ ung thư cổ tử cung đã giảm trong những thập kỷ qua, chủ yếu là do sàng lọc ở các nước phát triển và việc triển khai tiêm vắc xin phòng HPV rộng rãi, nhưng vẫn có 570.000 trường hợp mới và 311.000 ca tử vong ước tính trên toàn thế giới vào năm 2018
Virus u nhú ở người (HPV) tuýp 31 có quan hệ mật thiết với tuýp gây ung thư nhiều nhất là HPV 16, nhưng chỉ chiếm 4% (5) các trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới. HPV 31 có khả năng gây biến đổi tế bào trong lớp biểu mô cổ tử cung, sau đó phát triển âm thầm để tiến triển từ giai đoạn bình thường sang tiền ung thư và ung thư xâm lấn sau này.
Quá trình tiến triển thành ung thư cổ tử cung thường rất chậm. Khoảng cách từ giai đoạn bình thường thành tiền ung thư và ung thư xâm lấn kéo dài khoảng 10 – 20 năm, tạo cơ hội để phụ nữ sàng lọc, phát hiện kịp thời và điều trị tiền ung thư, tránh tiến triển thành ung thư. Tuy nhiên, phụ nữ bị suy giảm miễn dịch thường tiến triển thành tiền ung thư và ung thư nhanh hơn so với bình thường.
Ung thư âm đạo là dạng ung thư hiếm gặp, chiếm chưa đến 2% trong số tất cả các bệnh ác tính phụ khoa, với tỷ lệ mắc hàng năm là 0,7/100.000 và có 1.178 ca mắc mới mỗi năm trong giai đoạn 2005 – 2009. Tỷ lệ sống sót của ung thư âm đạo tương đối sau 5 năm đối với ung thư biểu mô tế bào vảy của âm đạo là 54%. (6)
Nguyên nhân gây ung thư âm đạo thay đổi tùy theo mô học. Trong đó ung thư biểu mô tế bào vảy chiếm 80-90% trong số tất cả các trường hợp và có liên quan đến tiền sử ung thư cổ tử cung, xạ trị trước đó đối với ung thư hậu môn sinh dục và nhiễm HPV. DNA HPV được phát hiện trong 55 – 64% ung thư âm đạo xâm lấn, gồm các tuýp HPV nguy cơ cao, trong đó có HPV 31. (6)
Ung thư âm đạo có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng trong giai đoạn đầu nhiễm bệnh. Khi ung thư phát triển, có thể gây ra các dấu hiệu và triệu chứng đặc trưng như chảy máu âm đạo không bình thường (sau khi mãn kinh hoặc sau khi quan hệ tình dục), khí hư âm đạo, một cục u hoặc khối u âm đạo, đi tiểu đau, đi tiểu thường xuyên, táo bón, đau vùng chậu… Đáng lưu ý, ung thư âm đạo có thể lan sang các bộ phận khác của cơ thể, lan rộng đến phổi, gan và xương, gọi là ung thư di căn.
Theo thống kê, có khoảng 90% trường hợp ung thư hậu môn là do HPV gây ra, chủ yếu là các tuýp HPV nguy cơ cao như HPV 31 gây bệnh. Ung thư hậu môn chiếm khoảng 20.000 ca ung thư mới trên toàn cầu mỗi năm, phân bố tương tự theo giới tính. Tỷ lệ mắc bệnh trên toàn cầu đang ngày càng gia tăng do những thay đổi trong hành vi tình dục.
Giống như các loại ung thư liên quan đến HPV khác, nguy cơ ung thư hậu môn tăng lên do tiếp xúc tình dục với HPV, đáng chú ý nhất là qua quan hệ tình dục qua đường hậu môn và do suy giảm miễn dịch liên quan đến HIV, hút thuốc lá. Hiện tượng phát triển các tế bào bất thường trong lớp niêm mạc hậu môn, tạo thành các khối u là nguyên do tiến triển thành ung thư hậu môn.
Triệu chứng của ung thư hậu môn phổ biến là tình trạng ngứa dai dẳng ở hậu môn, chảy máu trực tràng khi đi tiêu, xuất hiện cục u hoặc khối u, phân bị rò rỉ, thay đổi trong các hoạt động đại tiện, cảm giác đau đớn tại vùng hậu môn. Ung thư hậu môn hiếm khi di căn đến các mô lân cận, nhưng trong trường hợp không được điều trị đúng cách có thể xuất hiện biến chứng đến phổi và gan.
Ung thư dương vật là một căn bệnh hiếm gặp với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đáng kể khi xuất hiện ở giai đoạn tiến triển của bệnh. Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở các nước đang phát triển ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Nguyên nhân gây ung thư dương vật đến từ nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau bao gồm hẹp bao quy đầu, vệ sinh kém, hút thuốc lá, viêm quy đầu mãn tính và nhiễm HPV qua đường tình dục – được phát hiện trong hơn 20% tế bào khối u dương vật.
Các loại ung thư dương vật phổ biến bao gồm ung thư biểu mô tế bào vảy (chiếm hơn 95% các trường hợp), u hắc tố, ung thư biểu mô tế bào đáy, ung thư tuyến, ung thư biểu mô tiết niệu, Sarcoma (ung thư phát triển ở cơ hoặc mô liên kết).
Triệu chứng phổ biến của ung thư dương vật là vùng da trên dương vật bị đổi màu, xuất hiện cục u hoặc vết loét không đau (có thể chảy máu), các khối u phẳng trông có màu nâu xanh, chất lỏng có mùi hôi bên dưới bao quy đầu, phát ban, da dày hoặc thay đổi màu da, những cục u nhỏ – đóng vảy, sưng và kích ứng, đặc biệt ở đầu dương vật.
Theo các chuyên gia y tế, HPV nguy cơ cao là tác nhân chính gây ung thư biểu mô tế bào vảy đầu và cổ, phần lớn trong số đó khu trú ở hầu họng, tiềm ẩn nguy cơ gây ra ung thư vòm họng. Đây là dạng ung thư hiếm gặp, phổ biến hơn ở Châu Á, Bắc Phi và Trung Đông. Theo thống kê từ Globocan Việt Nam 2020, có khoảng 3.3% bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vòm họng trong tổng số người bệnh được chẩn đoán ung thư hàng năm tại Việt Nam.
Trong hầu hết các trường hợp, những người bị ung thư vòm họng sẽ phát triển một khối u sau cổ hoặc có nhiều khối u nhưng không gây đau. Những khối u này có thể lan đến các hạch bạch huyết ở cổ và gây ra tình trạng sưng. Một số dấu hiệu cảnh báo mắc bệnh ung thư vòm họng như ù tai, mất thính lực, đầy tai, nhiễm trùng tai không khỏi, đau đầu, nghẹt mũi, chảy máu mũi, khó mở miệng., đau mặt., tê mặt, khó thở…
Các triệu chứng của ung thư vòm họng thường tương tự như các triệu chứng của các bệnh ít nghiêm trọng khác. Do đó, khi có một hoặc nhiều triệu chứng này không có nghĩa là bị ung thư vòm họng. Người bệnh nên trao đổi với bác sĩ nếu xuất hiện các triệu chứng kéo dài hơn hai tuần hoặc liên tục tái phát.
HPV 31 có khả năng lây nhiễm dễ dàng từ người sang người, với tỷ lệ 41,8% ở nam giới và 38,4% ở nữ giới. Ước tính có 23,4 triệu nam giới và 19,2 triệu nữ giới bị nhiễm loại HPV gây bệnh vào năm 2018. Vây HPV 31 lây lan như thế nào? Cùng tìm hiểu chi tiết dưới đây
Quan hệ tình dục không an toàn là đường lây nhiễm HPV phổ biến nhất, với tỷ lệ hơn 90% nam giới và 80% phụ nữ hoạt động tình dục sẽ bị nhiễm HPV trong suốt cuộc đời của họ. Theo nhiều nghiên cứu, các trường hợp nhiễm HPV đạt đỉnh ngay sau độ tuổi bắt đầu hoạt động quan hệ tình dục (tuổi trung bình là 20) và giảm dần sau đó.
HPV lây truyền qua đường tình dục bao gồm qua âm đạo và hậu môn. Đặc biệt, HPV cũng có thể lây lan dễ dàng qua tiếp xúc da kề da, nghĩa là HPV có thể lây truyền trong quan hệ tình dục không thâm nhập như tiếp xúc tay với bộ phận sinh dục. Đáng lưu ý, HPV có thể lây lan ngay cả khi bạn tình không biểu hiện bất kỳ triệu chứng rõ ràng nào, chẳng hạn như mụn cóc sinh dục.
HPV là virus có DNA rất nhỏ, không có vỏ bọc, có khả năng chống lại sự khô hạn và có thể tồn tại trong môi trường bên ngoài trong nhiều ngày. Do đó, HPV có thể dễ lây nhiễm vào niêm mạc và tế bào sừng ở da qua tiếp xúc da kề da và thậm chí các bề mặt dùng chung mà không cần quan hệ tình dục.Việc tiếp xúc lâu dài với vùng da bị nhiễm, chẳng hạn như nắm tay cửa có thể lây truyền virus.
Theo chuyên gia y tế, HPV có thể lây truyền dọc theo từ mẹ sang thai nhi. Trên thực tế, có tới 80% trẻ sơ sinh sinh ra từ những phụ nữ bị HPV sinh dục có DNA HPV phát hiện được trong dịch hút mũi họng hoặc niêm mạc miệng của trẻ, tình trạng này có thể kéo dài trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Trong nhiều báo cáo, HPV được ghi nhận vẫn tồn tại trong niêm mạc miệng của 10% trẻ sơ sinh khi được 3 tuổi.
Mặc dù, HPV có thể lây truyền cho thai nhi trong quá trình sinh nở nhưng ngay cả khi trẻ bị nhiễm HPV, cơ thể trẻ thường có thể tự đào thải mà không gây biến chứng nguy hiểm. Trong trường hợp hiếm gặp, trẻ sinh ra từ người mẹ bị mụn cóc sinh dục có thể phát triển mụn cóc ở cổ – đây là tình trạng nghiêm trọng gọi là bệnh u nhú đường hô hấp có nguy cơ chặn đường thở của trẻ.
HPV 31 và các loại HPV nguy cơ cao được xác định là tác nhân gây bệnh chính của ung thư biểu mô tế bào vảy cổ tử cung và các bệnh đường sinh dục khác. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chứng minh nhiễm HPV thường là quá trình tự giới hạn và không dẫn đến tổn thương biểu mô, có thể tự đào thải virus sau một khoảng thời gian.
Thông thường, triệu chứng phổ biến nhất khi nhiễm HPV là xuất hiện mụn cóc ở vùng sinh dục. Các loại mụn cóc này có thể nhìn thấy là những cục u nhỏ màu hồng hoặc xám mềm, ẩm, có bề mặt gồ ghề… đôi khi gây ra cảm giác ngứa, rát hoặc khó chịu. Mụn cóc do HPV xuất hiện sau thời gian ủ bệnh từ 1 – 6 tháng.
Ở nam giới, mụn cóc thường xuất hiện nhiều nhất ở dưới bao quy đầu, trên rãnh quy đầu, trong lỗ niệu đạo và trên thân dương vật. Ngoài ra, mụn cóc có thể xuất hiện xung quanh hậu môn, trực tràng, đặc biệt ở nam giới quan hệ đồng tính. Ở phụ nữ, mụn cóc thường xuất hiện nhiều nhất ở âm hộ, thành âm đạo, cổ tử cung và tầng sinh môn,niệu đạo và vùng hậu môn có thể bị ảnh hưởng.
Cần lưu ý, HPV 31 thuộc nhóm nguy cơ cao, nếu nhiễm trùng dai dẳng có thể làm thay đổi các tế bào và tiến triển thành ung thư nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Nhiễm trùng HPV 31 có thể tồn tại trong cơ thể trong một khoảng thời gian dài và phát triển thành ung thư liên quan đến HPV có thể mất tới 10 năm mới biểu hiện.
Trên toàn thế giới, có khoảng 600.000 trường hợp ung thư cổ tử cung mới và 342.000 ca tử vong hàng năm. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung đã giảm hơn 50% trong 30 năm qua, chủ yếu là do việc phụ nữ đã nhận thức cao trong việc thực hiện sàng lọc ung thư cổ tử cung theo định kỳ để phát hiện sớm HPV cũng như các tế bào bất thường trong cơ thể. Một số xét nghiệm được thực hiện để nhận biết sớm tình trạng nhiễm HPV bao gồm:
Xét nghiệm Pap (phết tế bào tử cung) là phương pháp tầm soát và phát hiện những biến đổi bất thường của tế bào cổ tử cung. Phương pháp này được ví như “trụ cột” của sàng lọc ung thư cổ tử cung, ra đời vào năm 1940 và triển khai rộng rãi cho đến ngày nay. Kỹ thuật xét nghiệm Pap được thực hiện bằng cách lấy mẫu tế bào cổ tử cung phết trực tiếp lên lam kính và tiến hành xét nghiệm, phân tích, xử lý trong phòng xét nghiệm dưới kính hiển vi.
Các nghiên cứu đã chỉ ra, phương pháp nghiệm Pap có độ nhạy trong phát hiện các tổn thương cấp độ cao từ 55 – 80%. Do bản chất phát triển chậm thông thường của ung thư cổ tử cung, độ nhạy của xét nghiệm Pap thường xuyên có thể cao hơn.
Khuyến cáo về việc thực hiện xét nghiệm Pap có thể thực hiện phụ thuộc vào độ tuổi, chẳng hạn như:
Xét nghiệm HPV DNA là một trong những phương pháp hữu hiệu và tiên tiến nhất trong việc tầm soát và góp phần chẩn đoán sớm ung thư cổ tử cung ở phụ nữ. Đây là kỹ thuật sử dụng hệ thống máy tách chiết DNA tự động và công nghệ hiện đại để phân tích chính xác sự hiện diện của HPV trong cơ thể.
Độ nhạy của xét nghiệm DNA HPV lên đến 90 -95% trong phát hiện các chủng HPV nguy cơ cao, ngay cả khi chưa có sự biến đổi bất thường.
Sinh thiết cổ tử cung là thủ thuật lấy mô từ cổ tử cung để xét nghiệm các tình trạng bất thường hoặc tiền ung thư, ung thư cổ tử cung. Quá trình sinh thiết được thực hiện qua 2 kỹ thuật chính, bao gồm:
Soi cổ tử cung là phương pháp giúp phát hiện sớm các bất thường và chẩn đoán các vấn đề sức khỏe liên quan đến cổ tử cung, cũng như hỗ trợ nhận biết sớm nguy cơ nhiễm HPV. Thủ thuật được thực hiện bằng cách quan sát vùng cổ tử cung thông qua một thiết bị phóng đại (máy soi cổ tử cung). Máy soi sẽ chiếu một luồng ánh sáng vào âm đạo và vào cổ tử cung để quan sát bất thường ở khu vực cổ tử cung.
Cho đến hiện tại, không có phương pháp hay thuốc đặc trị để loại bỏ virus ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, bác sĩ có thể tập trung điều trị cho các vấn đề sức khỏe do HPV gây ra, chẳng hạn như mụn cóc sinh dục hoặc các bộ phận khác của cơ thể và các tế bào bất thường ở cổ tử cung. Các phương pháp điều trị bao gồm:
Trong một số trường hợp, người nhiễm HPV có thể phát triển các tế bào cổ tử cung bất thường, cần phải điều trị kịp thời để ngăn ngừa các tế bào trở thành ung thư.
Theo các chuyên gia y tế, tiêm vắc xin Gardasil 9 là cách phòng ngừa nhiễm HPV type 31 an toàn và hiệu quả nhất. Ngoài HPV 31, vắc xin có thể bảo vệ đồng thời khỏi 8 tuýp HPV nguy cơ cao khác bao gồm: 6, 11, 16, 18, 33, 45, 52 và 58, mang hiệu quả lên đến 98% trong việc phòng ngừa những thay đổi bất thường hoặc ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo…ở người bệnh.
Gardasil 9 được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cấp phép vào tháng 12/2014 và chính thức có tại Việt Nam từ năm 2022. Tháng 5/202, Bộ Y tế đã mở rộng độ tuổi tiêm cho người lớn lên đến 45 tuổi, cho cả nam và nữ với phác đồ tiêm cụ thể như sau:
Người từ tròn 9 tuổi đến dưới 15 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên, phác đồ tiêm gồm 2 mũi:
Nếu mũi 2 tiêm cách mũi 1 dưới 5 tháng, cần tiêm mũi 3 cách mũi 2 ít nhất 3 tháng:
Người từ tròn 15 tuổi đến 45 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên, phác đồ tiêm gồm 3 mũi:
Bên cạnh tiêm chủng vắc xin, cả nam và nữ cần thực hiện kết hợp các biện pháp hỗ trợ để phòng ngừa lây nhiễm HPV 31 cũng như các loại HPV khác, chẳng hạn như:
⇒ Tham khảo thêm: HPV 33 là gì? Những điều cần biết về nhóm virus gây ung thư cổ tử cung
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
HPV 31 thuộc nhóm HPV nguy cơ cao, khả năng gây ra các bệnh ung thư nghiêm trọng cho cả nam và nữ như ung thư cổ tử cung, ung thư âm đạo, âm hộ, hậu môn, dương vật, vòm họng… Cách tốt nhất để ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm HPV 31 là tiêm vắc xin ngay khi đủ điều kiện về độ tuổi và thể trạng. Đồng thời, thực hiện các phương pháp phòng bệnh như quan hệ tình dục an toàn, tránh dùng chung đồ cá nhân và tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ.