Viêm xoang cấp là bệnh lý mũi xoang thường gặp, chiếm khoảng 30 triệu lượt thăm khám và chăm sóc ban đầu trên toàn cầu.
Thống kê có khoảng 6-7% trẻ em có triệu chứng hô hấp bị viêm xoang cấp tính. Trong khi đó, khoảng 16% người trưởng thành được chẩn đoán mắc phải căn bệnh này mỗi năm.
Viêm xoang cấp tính không được điều trị có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Nhiễm trùng xoang lan sang các cấu trúc xung quanh, chẳng hạn như não và ổ mắt, thông qua các tĩnh mạch lưỡng cực không có van có thể đe dọa tính mạng người bệnh.
Dựa trên sự đồng thuận nhiều hơn là nghiên cứu thực nghiệm, viêm xoang có thể được phân thành các nhóm sau.
Theo đó, viêm cấp tính là loại viêm xoang khởi phát với các triệu chứng kéo dài dưới 4 tuần. Loại viêm xoang này có thể tự khỏi nhưng cũng có thể phải điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật.
Các triệu chứng của viêm xoang cấp tính cũng là các triệu chứng của viêm xoang nói chung, bao gồm:
Các triệu chứng nhỏ bao gồm:
Trong đó, dấu hiệu viêm xoang cấp đặc hiệu hơn với các biểu hiện sau:
Các xoang có chức năng lọc các chất ô nhiễm, vi sinh vật, bụi và các kháng nguyên khác. Các xoang dẫn lưu vào hốc mũi thông qua các kênh nhỏ gọi là lỗ thông xoang. Các xoang sàng trước, xoang hàm và trán dẫn lưu vào khe giữa, tạo ra một khu vực tắc nghẽn được gọi là phức hợp lỗ thông xoang.
Xoang sàng sau và xoang bướm đổ vào khe trên. Những sợi lông nhỏ xíu được gọi là “lông mao” lót màng nhầy của khoang mũi và vòm họng, đồng thời hoạt động phối hợp với nhau để thực hiện chức năng lưu thông chất nhầy và lọc các mảnh vụn, sau đó dẫn chúng đến vòm họng và hầu họng.
Viêm mũi xoang xảy ra khi xoang và đường mũi không thể loại bỏ hiệu quả các kháng nguyên này, dẫn đến tình trạng viêm.
Viêm mũi xoang thường do 3 yếu tố chính:
Nguyên nhân phổ biến nhất gây tắc nghẽn tạm thời các vùng dẫn lưu này là phù nề cục bộ do nhiễm trùng đường hô hấp trên (URI) hoặc dị ứng mũi. Cả hai tình trạng này đều dẫn đến viêm mũi xoang.
Khi điều này xảy ra, vi khuẩn có thể tồn tại, tiếp cận và sinh sôi trong các xoang cạnh mũi. Các biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra khi nhiễm trùng xoang lan sang các cấu trúc xung quanh, chẳng hạn như não và ổ mắt, thông qua các tĩnh mạch không có van.
Người trưởng thành có 4 cặp xoang phát triển và có liên quan đến nhau: xoang hàm, xoang sàng, xoang trán và xoang bướm.(1)
Trẻ sơ sinh chỉ có xoang sàng và xoang hàm. Xoang sàng ngăn cách với hốc mắt chỉ bằng một lớp xương mỏng. Do đó, nhiễm trùng hốc mắt ở trẻ nhỏ thường phát sinh từ xoang sàng. Các xoang trán dường như không phát triển cho đến khi trẻ 5-6 tuổi và không phát triển đầy đủ cho đến sau tuổi dậy thì. Các biến chứng nội sọ thường phát sinh từ các xoang trán và do đó xảy ra thường xuyên hơn ở trẻ lớn hơn hoặc người lớn. Xoang bướm bắt đầu thông khí khi trẻ 5 tuổi nhưng không phát triển đầy đủ cho đến 20-30 tuổi.
Viêm mũi xoang cấp tính cần được phân biệt với viêm xoang mạn tính để đảm bảo không lạm dụng kháng sinh.
Theo ThS.BS.CKI Trương Tấn Phát, khoa Tai Mũi Họng BVĐK Tâm Anh TP.HCM, tiêu chuẩn chẩn đoán thông thường đối với bệnh viêm mũi xoang ở người lớn là bệnh nhân có ít nhất hai triệu chứng chính hoặc một triệu chứng chính kèm theo hai triệu chứng phụ trở lên.
Các tiêu chí ở trẻ em cũng tương tự và chú trọng nhiều hơn đến dấu hiệu chảy nước mũi (không phải nghẹt mũi).
Để chẩn đoán viêm xoang cấp tính, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện các xét nghiệm gồm:
Có một số bằng chứng cho thấy chỉ số ESR và CRP tăng cao trong máu có thể liên quan đến nhiễm trùng do vi khuẩn.
Nuôi cấy dịch hút nội soi ≥10 CFU/mL được coi là tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên, xét nghiệm này ít được dùng do tương quan kém với dịch hút nội soi. Hút dịch nội soi có thể hữu ích cho các trường hợp kháng trị hoặc bệnh nhân dị ứng với nhiều loại kháng sinh.
Chẩn đoán hình ảnh đối với viêm xoang cấp tính là không cần thiết trừ khi có mối nghi ngờ về mặt lâm sàng đối với một biến chứng hoặc chẩn đoán thay thế.
Chụp X-quang thường không hữu ích trong việc phát hiện viêm. Mặc dù chúng có thể hiển thị mức chất lỏng không khí nhưng không giúp phân biệt nguyên nhân virus và vi khuẩn.
Nếu nghi ngờ có biến chứng hoặc chẩn đoán phân biệt, hoặc nếu bệnh nhân bị nhiễm trùng cấp tính tái phát, thì nên chụp CT xoang. Kỹ thuật này để đánh giá xương, mô mềm, răng hoặc các bất thường về giải phẫu khác hoặc sự hiện diện của viêm xoang mạn tính.
CT xoang có thể cho thấy mức độ dịch-khí, mờ và viêm. Niêm mạc xoang dày trên 5 mm là biểu hiện của viêm. Nó cũng có thể đánh giá hiệu quả sự xói mòn hoặc phá hủy xương. Tuy nhiên, những phát hiện này cũng không hữu ích trong việc phân biệt nguyên nhân do virus và vi khuẩn.
Kỹ thuật này cung cấp nhiều chi tiết hơn CT xoang. Nó giúp đánh giá mô mềm hoặc làm sáng tỏ khối u. Do đó, MRI có thể hữu ích để xác định mức độ biến chứng trong các trường viêm xoang lan đến nội sọ.
Điều quan trọng nhất là phân biệt giữa viêm mũi xoang cấp tính do virus và vi khuẩn. Viêm mũi dị ứng cũng là một tình trạng phổ biến cần được làm rõ. Nhiễm nấm cũng có thể gây viêm mũi xoang.
Viêm xoang do nấm xâm lấn là một dạng nhiễm trùng nghiêm trọng thường gặp hơn ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, nguy cơ tử vong cao.
Các chẩn đoán khác ít phổ biến hơn để xem xét trong chẩn đoán phân biệt bao gồm:
Các biến chứng viêm xoang cấp tính hiếm gặp, xảy ra với khoảng 1/1000 trường hợp. Nhiễm trùng xoang có thể lan đến hốc mắt, xương hoặc khoang nội sọ. Những biến chứng này có thể đi kèm với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đáng kể.
Các biến chứng bao gồm:
Biến chứng nội sọ cũng có thể xảy ra. Các biến chứng nội sọ bao gồm:
Viêm xoang cấp tính do nấm có thể xảy ra ở dạng không xâm lấn và xâm lấn. Hình thức xâm lấn có thể lây lan sang các cấu trúc xung quanh. Việc xác định sớm biến chứng này rất quan trọng để tránh những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra.
Cách điều trị viêm xoang cấp tính như thế nào? Điều trị viêm xoang cấp bao gồm điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trong trường hợp có biến chứng cần giải quyết. Các liệu pháp hỗ trợ tại chỗ cũng có thể hữu ích cho quá trình điều trị viêm xoang cấp tính.(2)
Trong điều trị viêm xoang cấp bằng kháng sinh, có sự khác biệt nhỏ giữa các hướng dẫn khác nhau của các ủy ban chuyên gia.
Hướng dẫn cập nhật về viêm xoang dành cho người lớn năm 2015 của Học viện Tai mũi họng Hoa Kỳ khuyến cáo, sử dụng amoxicillin có hoặc không có clavulanate ở người lớn là liệu pháp đầu tay. Thời gian điều trị kéo dài từ 5-10 ngày ở hầu hết người lớn. Cần xem xét nếu các triệu chứng không giảm trong vòng 7 ngày hoặc xấu đi bất cứ lúc nào.
Hướng dẫn của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ về Viêm mũi xoang cấp tính do vi khuẩn khuyến cáo, dùng amoxicillin với clavulanate ở người lớn là liệu pháp đầu tay. Điều trị kéo dài trong 10-14 ngày ở trẻ em và 5-7 ngày ở người lớn. Nếu các triệu chứng không giảm sau 3-5 ngày hoặc trầm trọng hơn sau 48-72 giờ điều trị cần đánh giá lại.
Hướng dẫn Thực hành Phòng khám của Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ về Chẩn đoán và Quản lý Viêm xoang Cấp tính do Vi khuẩn ở Trẻ em từ 18 tuổi khuyến cáo, sử dụng amoxicillin có hoặc không có clavulanate là liệu pháp đầu tay. Thời gian điều trị không rõ ràng, tuy nhiên có thể điều trị thêm 7 ngày sau khi hết triệu chứng. Nếu các triệu chứng không giảm hoặc xấu đi sau 72 giờ điều trị cần xem xét lại phác đồ.
Đây là những khuyến nghị phổ biến nhất trong các hướng dẫn điều trị viêm xoang cấp tính. Thuốc xịt mũi Steroid có thể giúp giảm sưng niêm mạc, giảm tắc nghẽn giúp người bệnh dễ chịu hơn. Ngoài ra, rửa mũi bằng nước muối sinh lý cũng có thể giúp giảm tắc nghẽn.
Việc sử dụng thuốc kháng histamin không được khuyến nghị, trừ khi có thành phần dị ứng rõ ràng vì chúng có khả năng làm đặc dịch tiết mũi.
Nếu nghi ngờ viêm xoang cấp tính dạng xâm lấn do nấm, bệnh nhân có thể được can thiệp phẫu thuật để điều trị triệt để, tránh ổ nấm sinh sôi gây biến chứng nguy hiểm.(4)
Để phòng ngừa bệnh viêm xoang nói chung và viêm xoang cấp tính nói riêng, mỗi người cần:
Viêm xoang cấp tính hiếm khi gây nguy hiểm vì hầu hết các trường hợp là do virus và sẽ tự khỏi. Viêm xoang do vi khuẩn cấp tính không biến chứng có thể điều trị dễ dàng bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên, nếu có biến chứng, bệnh có thể gây hậu quả nghiêm trọng.
Các biến chứng nguy hiểm nhất như biến chứng nội sọ, có thể để lại di chứng bệnh tật hoặc đe dọa tính mạng người bệnh như: thay đổi trạng thái tinh thần, bất thường dây thần kinh sọ, đau khi cử động mắt, phù quanh hốc mắt…
Không có khuyến nghị chính thức về ăn uống cho bệnh viêm xoang, tuy nhiên, thực tế cho thấy khi ăn các món nóng, ấm sẽ hạn chế tình trạng nghẹt xoang hơn. Ngược lại, ăn/uống thực phẩm lạnh làm tình trạng tắc nghẽn xoang nặng hơn.
Hút thuốc lá, uống rượu bia cũng khiến cho viêm xoang nặng hơn. Việc sử dụng thực phẩm gây dị ứng làm tăng nặng tình trạng viêm xoang. Các thực phẩm gây dị ứng có thể khác nhau ở mõi người. Một số người dị ứng với hải sản (tôm, cua), trong khi một số người dị ứng với vài loại rau như dọc mùng (bạc hà), hay các loại hạt như lạc (đậu phộng)…
Nếu viêm xoang do vi khuẩn thì không lây bệnh, viêm xoang do virus có lây bệnh. Do đó, tiêm vắc xin phòng bệnh cúm là biện pháp tốt để phòng ngừa viêm xoang do cúm.
Hầu như viêm xoang cấp không gây chảy máu mũi. Các triệu chứng thường thấy là nghẹt mũi, chảy dịch mũi, đau nhức vùng chữ T, có thể kèm đau đầu.
Viêm xoang cấp tính do virus có thể gây sốt, mệt mỏi và các triệu chứng khác của bệnh cúm.
Nếu các triệu chứng viêm xoang cấp không cải thiện mà trở nên trầm trọng người bệnh cần tái khám ngay với bác sĩ để được chẩn đoán và can thiệp kịp thời.
Để đặt lịch khám, tư vấn và điều trị viêm xoang cấp và các bệnh lý Tai – Mũi – Họng tại Trung tâm Tai Mũi Họng, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, quý khách có thể liên hệ:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Mặc dù viêm xoang cấp có thể tự khỏi nhưng đôi khi có thể gây nguy hiểm nếu phát triển các biến chứng nội sọ. Bác sĩ Phát lưu ý, người bệnh nên tới bệnh viện thăm khám khi có biểu hiện viêm xoang cấp kéo dài hơn một tuần không cải thiện. Ngoài ra, mỗi người nên chủ động phòng bệnh viêm xoang bằng việc tiêm phòng vắc xin cúm và thăm khám sức khỏe 2 lần mỗi năm để phát hiện và điều trị sớm.