Viêm cầu thận tiến triển nhanh là một tình trạng sức khỏe nguy hiểm, đặt ra nhiều thách thức trong việc quyết định hướng xử trí và điều trị. Bệnh gây ra sự giảm sút nhanh chóng và nghiêm trọng chức năng thận, gây tổn thương thận vĩnh viễn. Tìm hiểu thêm về nguyên nhân, cách điều trị và phòng ngừa viêm cầu thận tiến triển nhanh qua các chia sẻ của bác sĩ CKII Hồ Tấn Thông, Bác sĩ Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh TP.HCM trong bài viết sau.
Viêm cầu thận tiến triển nhanh (Rapidly Progressive Glomerulonephritis – RPGN) là tình trạng viêm thận cấp, đi kèm với tổn thương liềm thể (tế bào hình liềm) ở cầu thận. Đây là hội chứng nguy hiểm, các bác sĩ đánh giá đây là tình trạng lâm sàng khó, đặc trưng bởi sự suy giảm chức năng thận nhanh chóng và đặc điểm mô bệnh học phức tạp.
Những đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học trong hội chứng này gồm có sự mất đi nhanh chóng của chức năng thận trong một khoảng thời gian ngắn, bất thường trong kết quả xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu và sự hình thành liềm thể (các tế bào hình lưỡi liềm) trong cầu thận. Việc phát hiện và chẩn đoán sớm là rất quan trọng để can thiệp điều trị nhằm mục đích ngăn ngừa mất thêm chức năng thận.
Viêm cầu thận tiến triển nhanh thường được phân loại dựa trên mô bệnh học và lắng đọng các phức hợp miễn dịch. Bao gồm 4 loại sau đây: (1)
Một số các biến thể khác với phân loại trên cũng đã được ghi nhận trong các báo cáo y khoa hoặc nghiên cứu khoa học về tình trạng này.
Các kháng thể miễn dịch IgG lưu hành chống lại một kháng nguyên có trong màng đáy cầu thận và phế nang, cụ thể là vị trí không collagen của chuỗi collagen loại IV. Sự lắng đọng kháng thể kháng màng đáy cầu thận này chiếm khoảng 10% – 15% các trường hợp viêm cầu thận liềm thể lan tỏa (viêm cầu thận tiến triển nhanh). Khoảng 40% – 60% các trường hợp có liên quan đến xuất huyết phế nang hoặc hội chứng Goodpasture. Có khoảng <10% các trường hợp bệnh kháng màng đáy cầu thận chỉ có biểu hiện ở phổi.
Một tỷ lệ nhỏ người bệnh có giảm nhẹ chức năng thận, tiểu đạm và tiểu máu. Kết quả sinh thiết thận xác nhận sự hiện diện của bệnh kháng màng đáy cầu thận, với sự lắng đọng IgG trên màng đáy cầu thận, nhưng không xuất hiện liềm thể ở cầu thận. Ngoài ra, những người bệnh này có thể âm tính với kháng thể kháng màng đáy cầu thận khi xét nghiệm. Một số trường hợp hiếm gặp, người bệnh có thể có xuất huyết phế nang lan tỏa hoặc suy giảm chức năng thận với kháng thể kháng màng đáy cầu thận âm tính. (2)
Viêm cầu thận do phức hợp miễn dịch chiếm khoảng 25% – 30% các trường hợp bệnh. Viêm cầu thận tiến triển nhanh nghèo miễn dịch (Pauci-immune) phổ biến hơn ở người lớn, trong khi bệnh do phức hợp miễn dịch thường gặp ở trẻ em.
Một nghiên cứu trên trẻ em cho thấy các nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh do phức hợp miễn dịch bao gồm bệnh thận IgA, viêm thận lupus, bệnh cryoglobulin máu, viêm mạch IgA và viêm cầu thận hậu nhiễm trùng. Viêm cầu thận phức hợp miễn dịch cũng phổ biến hơn ở các nước thu nhập thấp hơn do gánh nặng bệnh truyền nhiễm cao hơn. (3)
Theo kinh nghiệm điều trị, đa phần các bác sĩ tin rằng viêm cầu thận hình liềm qua trung gian miễn dịch có kết cục tốt hơn so với viêm cầu thận tiến triển nhanh do kháng thể kháng màng đáy cầu thận (anti-GBM) hoặc nghèo miễn dịch (Pauci-immune). Ngoại trừ trường hợp lupus, đặc biệt là Class IV, là nguyên nhân của bệnh, cũng thường liên quan đến ANCA dương tính. Ở người lớn, viêm cầu thận do phức hợp miễn dịch có thể là vô căn hoặc thứ phát sau:
Khoảng 40% – 50% các trường hợp viêm cầu thận tiến triển nhanh ở người lớn có nguyên nhân do viêm cầu thận nghèo miễn dịch (pauci-immune), còn được gọi là viêm mạch máu liên quan đến ANCA hoặc viêm cầu thận liềm thể loại III, là loại bệnh phổ biến nhất ở người lớn. Những trường hợp này thường rơi vào 3 loại chính như sau:
Bệnh u hạt ái toan với viêm đa mạch liên quan đến ANCA dương tính chiếm khoảng 40% – 60% các trường hợp, điển hình là anti-myeloperoxidase (anti-MPO). Tuy nhiên, bệnh u hạt ái toan với viêm đa mạch ít liên quan đến hội chứng viêm cầu thận tiến triển nhanh so với bệnh u hạt với viêm đa mạch và viêm đa vi mạch.
Thuốc có thể là nguyên nhân gây ra bệnh này – liên quan đến ANCA, thường có hiệu giá MPO cao. Levamisole, thường được tìm thấy trong cocaine bị nhiễm bẩn, có thể gây ra sự gia tăng của cả kháng thể chống MPO và chống proteinase 3 (PR3), cùng với các tự kháng thể khác, tổn thương da và đau khớp.
Loại viêm cầu thận hình liềm này liên quan với ANCA và cả kháng thể GBM. Cả 2 kháng thể này đều dương tính. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng 10% – 50% người bệnh có kháng thể GBM có thể phát hiện được ANCA, điển hình là kháng thể MPO. Ngược lại, có tới 10% trường hợp bị viêm mạch liên quan đến ANCA cũng có kháng thể kháng GBM lưu hành.
Nói chung, ANCA dương tính trước các kháng thể chống GBM. Do đó, người ta cho rằng ANCA dẫn đến các kháng thể kháng GBM bằng cách phơi bày các gai trên GBM. Các biểu hiện thận tuân theo mô hình kháng GBM, trong khi các triệu chứng toàn thân thì tương tự như viêm mạch ANCA. Đặc điểm dương tính kép này xuất hiện trong quá trình lựa chọn điều trị.
Ai cũng có nguy cơ mắc viêm cầu thận tiến triển nhanh. Đặc biệt là trẻ em và người trung niên, từ 40 tuổi trở lên. Bệnh có thể nguyên phát hoặc thứ phát do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở mọi đối tượng.
Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc hội chứng viêm cầu thận tiến triển nhanh gồm:
Tìm hiểu thêm: Viêm cầu thận có di truyền không?
Phương pháp chẩn đoán bênh là xét nghiệm để khẳng định và tìm ra nguyên nhân chính của viêm cầu thận tiến triển nhanh (RPGN).
Hai kháng thể mới được tìm thấy trong bệnh liên quan đến ANCA:
Cả 2 đều tương quan với các biến cố huyết khối tĩnh mạch.
Các xét nghiệm khác bao gồm: LDH, hồng cầu lưới, và kháng thể kháng cardiolipin thường loại trừ các bệnh khác. Phết máu ngoại biên cũng thường được thực hiện để loại trừ các bệnh giống như viêm cầu thận tiến triển nhanh như: xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn (thrombotic thrombocytopenic purpura) và hội chứng antiphospholipid.
Cách điều trị bệnh là điều trị ức chế miễn dịch. Viêm cầu thận tiến triển nhanh không điều trị sẽ dẫn đến mất chức năng thận vĩnh viễn sau vài tuần đến vài tháng. Bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt là điều kiện tiên quyết để bảo tồn chức năng thận. Điều trị ức chế miễn dịch tương tự nhau với cả 3 nguyên nhân; vì vậy, phác đồ điều trị chung nên được cho trước và các điều trị đặc hiệu sẽ tiến hành sau.
Glucocorticoid là thuốc được sử dụng nhiều nhất trong điều trị bệnh này. Ức chế thụ thể glucocorticoid giúp giảm sự hình thành và tăng sinh liềm thể và sự di chuyển của tế bào biểu mô ngoại vi vào khoang Bowman. Khởi trị (điều trị ban đầu) với corticoid kèm với ức chế miễn dịch có kết quả điều trị khả quan hơn và tỷ lệ tái phát thấp hơn ở những trường hợp viêm mạch ANCA, bệnh kháng GBM, viêm cầu thận tiến triển nhanh lupus.
Vì vậy, phác đồ này được xem là phác đồ tiêu chuẩn. Trong trường hợp có chống chỉ định với ức chế miễn dịch, lọc huyết tương được xem như là phương pháp điều trị thay thế. Phối hợp giữa corticoid tấn công truyền tĩnh mạch và cyclophosphamide là chế độ điều trị phổ biến nhất hiện nay giúp làm giảm sản xuất các kháng thể.
Các thuốc khác gồm azathioprine, methotrexate, cyclosporine, và mycophenolate mofetil cũng được dùng trong điều trị RPGN. Vì đây là một bệnh hiếm gặp, nên các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có đối chứng không nhiều, đa số các phác đồ điều trị dựa trên kinh nghiệm của các bác sĩ chuyên khoa.
Mặc dù ức chế miễn dịch phối hợp với corticoid là phác đồ tiêu chuẩn, nhưng nó cũng có thể có chống chỉ định trong một số tình huống như nhiễm trùng đang tiến triển, giảm bạch cầu và suy gan. Liều điều trị cần được điều chỉnh theo tuổi và chức năng thận của người bệnh.
Khi kết quả huyết thanh chẩn đoán và sinh thiết thận chưa có, việc điều trị theo kinh nghiệm nên được tiến hành trước khi có chẩn đoán xác định. Điều trị theo kinh nghiệm này bao gồm truyền tĩnh mạch methylprednisone 500mg hoặc 1g trong ít nhất 3 ngày. Lọc huyết tương theo kinh nghiệm cũng có thể cân nhắc nếu người bệnh có ho ra máu hoặc đang nghi ngờ bệnh Goodpasture thể nặng. Sau đó, các điều trị đặc hiệu khác sẽ được xem xét khi có nhiều thông tin hơn. Tùy theo nguyên nhân gây bệnh, bác sĩ có thể áp dụng các phương pháp điều trị khác nhau đối với RPGN.
Lọc huyết tương, kết hợp với thuốc ức chế miễn dịch, thường được áp dụng điều trị anti-GBM bằng cách loại bỏ kháng thể này. Việc điều trị ban đầu càng sớm càng tốt vì để ngăn ngừa tổn thương thận tiến triển và tổn thương phổi.
Hướng dẫn của Hội Thận học Quốc Tế (KDIGO – Kidney Disease Improving Global Outcomes) năm 2012 đề nghị khởi trị ức chế miễn dịch với cyclophosphamide kết hợp corticoid và thay huyết tương cho mọi trường hợp mắc hội chứng Goodpasture, ngoại trừ ở những người đang chạy thận nhân tạo định kỳ và có 100% liềm thể trên sinh thiết thận mà không có xuất huyết phổi.
Rituximab có thể dùng để thay thế cho cyclophosphomide trong trường hợp có tác dụng bất lợi của cyclophosphomide hoặc quản lý rủi ro về khả năng sinh sản đối với nữ giới trong độ tuổi sinh sản mắc RPGN.
Liều lọc huyết tương là 4 lít trao đổi từ 2 – 4 tuần. Thông thường, sử dụng 5% albumin dịch thay thế, nhưng huyết tương tươi đông lạnh (0.3 – 2L) có thể được cho trong trường hợp cần can thiệp xâm lấn khác hoặc khi ghi nhận có xuất huyết phổi. Lọc huyết tương thường sẽ tiếp tục cho đến khi kháng thể bị ức chế hoặc kéo dài trong khoảng 14 ngày.
Điều trị cần được kéo dài thêm nếu bệnh phổi còn hoạt động hoặc mức kháng thể chưa giảm xuống mức như mong đợi. Sau lọc huyết tương luôn phải điều trị ức chế miễn dịch, thường là glucocorticoid và cyclophosphamide. Các nghiên cứu gần đây cho thấy lợi ích có thể có của màng lọc hấp thụ miễn dịch như là một phần của lọc huyết tương trong điều trị bệnh kháng thể GBM.
Nhiều phác đồ đề nghị điều trị ban đầu với 1g methylprednisolone trong 3 ngày, sau đó dùng glucocorticoticoid uống với prednisolone liều 1mg/kg/ngày (liều tối đa 60mg) mỗi ngày. Giảm liều mỗi tuần xuống còn 20 mg trong 6 tuần, sau đó giảm liều dần để ngưng hoàn toàn sau 6 tháng. Liều cyclophosphomide uống là 1 – 2 mg/kg/ngày, nhưng không nhiều hơn 100 mg/ngày đối với người bệnh hơn 60 tuổi.
Rituximab hoặc mycophenolate mofetil được khuyến cáo cho các trường hợp có tác dụng phụ của cyclophosphomide, như là tiểu máu đại thể. Lưu ý, rituximab bị lọc khi lọc huyết tương, đặc biệt là khi lọc huyết tương được tiến hành trong cửa sổ 3 ngày sau rituximab. Vì vậy, cần cân nhắc liều khi áp dụng cả 2 phương pháp điều trị này.
Gần đây, các thuốc mới có thể điều trị bệnh kháng thể GBM như là aletuzumab thuốc kháng tế bào lympho, hay imifidase, một men protease phân hủy IgG. Tuy nhiên, các kết quả vẫn cần được kiểm chứng nhiều hơn trong thời điểm hiện tại.
Thời gian điều trị tối ưu cho viêm cầu thận tiến triển nhanh hiện chưa xác định. Xét nghiệm anti-GBM nên được theo dõi khoảng 1 – 2 tuần sau điều trị ban đầu cho đến khi âm tính trong 2 tuần liên tiếp. Theo sau giai đoạn lui bệnh, liệu trình duy trì với thuốc ít tác dụng phụ nên được kê toa, như prednisone hoặc azathioprine liều thấp.
Điều trị theo nguyên nhân chính gây bệnh. Ví dụ như, bệnh thận IgA, viêm thận Lupus, bệnh cryoglobulin máu, mỗi bệnh có cách điều trị riêng. Điều trị ức chế miễn dịch thường được khuyến cáo cho tất cả các nguyên nhân ngoại trừ có nhiễm trùng. Viêm cầu thận hậu nhiễm liên cầu trùng thông thường sẽ dần lui bệnh, nhưng glucocorticoid thỉnh thoảng cũng được dùng trong trường hợp viêm cầu thận tiến triển nhanh liềm thể nặng.
Các điều trị liên quan bao gồm:
Sau khi ngưng thuốc nghi ngờ là nguyên nhân, thông thường viêm cầu thận tiến triển nhanh sẽ cải thiện. Tuy nhiên, khi chức năng thận không cải thiện, cân nhắc điều trị như là một viêm cầu thận nghèo miễn dịch (pauci-immune) như đã mô tả ở trên.
Điều trị viêm cầu thận liềm thể kháng thể dương tính kép như là một viêm cầu thận nghèo miễn dịch, nhưng nên cân nhắc lọc huyết tương. Biểu hiện tại thận theo sau kháng thể anti-GBM, trong khi triệu chứng toàn thân thì khi có viêm mạch ANCA. Kéo dài ức chế miễn dịch và theo dõi lâu dài là rất quan trọng, đặc biệt là khi có tái phát.
Không có cách nào có thể phòng ngừa bệnh này. Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời sẽ cải thiện đáng kể kết quả của viêm cầu thận tiến triển nhanh. Nhóm dân số có nguy cơ cao này (gồm những người có bệnh cầu thận, cần phải dùng các thuốc có liên quan đến viêm mạch ANCA) cần được thông báo về các triệu chứng biểu hiện của bệnh và được hướng dẫn đi khám và điều trị trong trường hợp lượng nước tiểu giảm, máu trong nước tiểu, khó thở, ho ra máu và các triệu chứng toàn thân khác.
Tất cả người bệnh cần biết và hiểu được tầm quan trọng của việc tuân thủ phương pháp điều trị và các biến chứng điều trị, cần được hướng dẫn tái khám trước khi ngừng bất kỳ loại thuốc nào. Bác sĩ sẽ giải thích về các tác dụng phụ của thuốc ức chế miễn dịch, bao gồm nhiều loại nhiễm trùng, tác dụng gây quái thai và tầm quan trọng của dự phòng bằng kháng sinh, tiêm vaccine thích hợp để giảm các bệnh nhiễm trùng cơ hội trong khi điều trị.
Chẩn đoán và điều trị viêm cầu thận tiến triển nhanh tại Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh. Tại đây, người bệnh sẽ được các bác sĩ chuyên khoa, giàu chuyên môn, kinh nghiệm, tận tâm trực tiếp chẩn đoán và điều trị, ngăn cho bệnh tiến triển nặng, làm tổn thương cầu thận và thận, đồng thời điều trị nguyên nhân gây bệnh.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Hy vọng với các thông tin về viêm cầu thận tiến triển nhanh (RPGN) mà bài viết vừa chia sẻ đã giúp bạn hiểu thêm về hội chứng này và mức độ nguy hiểm của chúng.