Ung thư tuyến tiền liệt là bệnh ung thư phổ biến thứ 2 ở nam giới (1). Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2 đã có thể được nhận biết qua những triệu chứng rõ ràng như PSA>10, tăng kích thước tuyến tiền liệt, rối loạn tiểu tiện… Vậy tiên lượng bệnh như thế nào? Phương pháp điều trị nào hiệu quả? Hãy cùng tìm hiểu qua chia sẻ của bác sĩ chuyên khoa I Phan Huỳnh Tiến Đạt, Khoa Tiết niệu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM.

Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2 (hay II) là tình trạng khối u đã phát triển lớn, gây thay đổi kích thước tuyến tiền liệt nhưng chưa ra khỏi lớp vỏ bao tuyến tiền liệt. Ở giai đoạn 2, bác sĩ có thể phát hiện sự thay đổi kích thước của tuyến tiền liệt thông qua khám trực tràng hoặc các chẩn đoán hình ảnh như siêu âm (thường qua ngả trực tràng). Ngoài ra, chỉ số kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA – Prostate-specific Antige) cũng tăng cao, giúp phát hiện dấu hiệu ung thư tuyến tiền liệt thông qua xét nghiệm máu.

Theo cách chia giai đoạn của Ủy ban Ung thư Liên hợp Hoa Kỳ (AJCC), ung thư tuyến tiền liệt được phân thành 4 giai đoạn (I-IV) dựa trên 3 yếu tố:
Các yếu tố T, M, N được phân nhỏ thành nhiều cấp độ, ví dụ T1a, T1b, T2c… để xác định chính xác hơn tình trạng bệnh. Ngoài ra, còn một số yếu tố giúp đánh giá tình trạng ung thư tuyến tiền liệt như:
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn 2A bao gồm các trường hợp:
Ở ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2A, tất cả độ mô bệnh học khối u đều là 1 (dưới hoặc bằng 6 điểm).
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2B được xác định khối u có thể ở bất cứ giai đoạn nào từ T1a đến T2c (T1-2N0M0), PSA<20 và độ mô học 2, có nghĩa tỷ lệ mô bất thường cao nhất và nhì lần lượt là 3 và 4 điểm (3 + 4 = 7).
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2C hầu như giống với giai đoạn 2B (T1-2N0M0 và PSA<20), tuy nhiên có mô bệnh học độ 3 hoặc 4. Tức hai loại mô học chiếm nhiều nhất lần lượt là 4 và 3 điểm, hoặc có tổng bằng 8 .
Ở ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2, không phải tất cả người bệnh đều có triệu chứng. Tuy nhiên, triệu chứng phổ biến nhất thường là rối loạn tiểu tiện như:
Theo dữ liệu của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI), tỷ lệ sống sau 5 năm của người mắc ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn khu trú gần như đạt 100%. Tỷ lệ sống sau 5 năm được xem như người bệnh đã điều trị thành công ung thư. Do khối u chỉ khu trú bên trong tuyến tiền liệt, việc phẫu thuật loại bỏ tuyến tiền liệt gần như đảm bảo điều trị khỏi bệnh. (2)
Để chẩn đoán và xác định ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2, bác sĩ có thể dùng nhiều cách như:

Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt là phương pháp chính được dùng trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Do tế bào ung thư còn khu trú hoàn toàn trong tuyến tiền liệt, nên việc cắt bỏ tuyến tiền liệt gần như đảm bảo điều trị thành công.
Phẫu thuật có thể được thực hiện bằng phương pháp nội soi hoặc mở, bác sĩ có thể cần cắt toàn bộ phần tuyến tiền liệt, túi tinh và mô quanh tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, phẫu thuật cũng có thể gây một số biến chứng như tiểu không kiểm soát hay rối loạn cương dương. Do đó, nên chọn cơ sở y tế có đội ngũ phẫu thuật viên giàu kinh nghiệm và trang thiết bị hiện đại, hạn chế nguy cơ xảy ra biến chứng sau mổ.

Tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, các bác sĩ khoa Tiết niệu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa ưu tiên chọn phương pháp phẫu thuật nội soi để giúp người bệnh giảm đau, nhanh phục hồi cũng như hạn chế nguy cơ gặp các biến chứng không mong muốn.
Ngoài ra, người bệnh được phẫu thuật trong môi trường đảm bảo vệ sinh nhờ hệ thống phòng mổ áp suất dương với máy siêu lọc HEPA, loại bỏ bụi và dị vật kích thước từ 0,3 micromet. Bệnh viện cũng được trang bị đầy đủ các trang thiết bị cần thiết để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh, giúp bác sĩ đưa ra phác đồ chính xác, hiệu quả nhất.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Trên đây là các thông tin cần biết về ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2, bệnh có tiên lượng tốt nếu được điều trị sớm, chủ yếu bằng phương pháp phẫu thuật. Nam giới từ 50 tuổi trở lên nên tầm soát ung thư tuyến tiền liệt định kỳ để kịp thời phát hiện, điều trị bệnh, tránh để bệnh tiến triển đến giai đoạn trễ.