Bệnh nhân ung thư dạ dày sống được bao lâu? Những nội dung trong bài viết sau giúp giải đáp thắc mắc này và cung cấp các thông tin hữu ích cho người bệnh ung thư dạ dày cũng như gia đình của họ.
Bệnh nhân ung thư dạ dày sống được bao lâu? Bất kỳ ai lâm vào trọng bệnh đều muốn đoán biết thời gian sống của mình. ThS.BS Nguyễn Thành Trung, khoa Ung bướu BVĐK Tâm Anh Hà Nội cho biết, ung thư dạ dày là một căn bệnh nguy hiểm, chiếm tỷ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh về tiêu hóa và đứng thứ 3 trong tổng số các bệnh ung thư.
Tiên lượng sống khi phát hiện muộn thường kém nhưng nếu được phát hiện từ các giai đoạn sớm, cơ hội chữa khỏi hoặc tiên lượng sống sau 5 năm khả quan hơn. Tỷ lệ sống mặc dù không phải là con số tuyệt đối nhưng cũng phần nào giúp bệnh nhân áng chừng được hiệu quả điều trị, thời gian sống của mình và chủ động lập kế hoạch cho tương lai.
Ung thư dạ dày sống được bao lâu? Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó giai đoạn bệnh quyết định lớn tới tiên lượng của bệnh nhân ung thư dạ dày.
Tỷ lệ sống sót là một con số so sánh tương đối giữa những người mắc cùng loại và giai đoạn ung thư với những người trong tổng thể.
Chẳng hạn như nếu tỷ lệ sống sót tương đối trong 5 năm đối với một giai đoạn cụ thể của ung thư dạ dày là 70%, có nghĩa là những người bị ung thư dạ dày sẽ có khoảng thời gian sống trung bình là 70% trên 5 năm trong tổng số những người mắc bệnh ung thư dạ dày. Họ có thể sống ít nhất 5 năm sau khi được chẩn đoán.
Tỷ lệ sống được thống kê bởi Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ. Dựa trên thông tin từ cơ sở dữ liệu SEER * do Viện Ung thư Quốc gia (NCI) duy trì, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cung cấp số liệu thống kê về khả năng sống sót của các loại ung thư, trong đó có ung thư dạ dày.
Dựa trên mức độ di căn của bệnh ung thư, Cơ sở dữ liệu SEER theo dõi tỷ lệ sống sót tương đối trong 5 năm đối với bệnh ung thư dạ dày ở Hoa Kỳ. Cơ sở dữ liệu SEER chia các bệnh ung thư thành các giai đoạn khu trú, khu vực và di căn xa.
Bệnh nhân ung thư dạ dày sống được bao lâu? Theo ước tính của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tỷ lệ sống trung bình sau 5 năm của bệnh nhân ung thư dạ dày kể từ lúc phát hiện là 32%. Con số này tương đối thấp so với ung thư đại trực tràng (64%). (1)
Tỷ lệ sống sau 5 năm qua từng giai đoạn ung thư dạ dày cụ thể được ước tính như sau.
Theo bác sĩ Thành Trung, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân ung thư dạ dày. Kết quả của các nghiên cứu khác nhau chỉ ra rằng loại phẫu thuật cắt dạ dày, tuổi, loại tế bào; giai đoạn bệnh và di căn là những yếu tố ảnh hưởng đến sự sống còn của bệnh nhân. Các yếu tố khác nhau, bao gồm yếu tố di truyền, lâm sàng chẩn đoán, điều trị và sau phẫu thuật cũng ảnh hưởng đến sự gia tăng tỷ lệ về thời gian sống thêm sau phẫu thuật của những bệnh nhân này. (2)
Ngoài ra, các biến cố như tái phát, di căn… không chỉ ảnh hưởng đến khả năng sống sót mà còn ảnh hưởng đến phương pháp điều trị và số lần điều trị mới ở bệnh nhân.
Sau đây là các yếu tố hàng đầu ảnh hưởng tới tiên lượng của bệnh nhân ung thư dạ dày đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra.
Ung thư dạ dày được chia thành 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn có mức độ xâm lấn khác nhau. Giai đoạn đầu của bệnh sẽ có tỷ lệ sống sót cao hơn do được chẩn đoán sớm. Việc chẩn đoán chậm trễ khiến bệnh tiến triển và làm giảm khả năng sống sót của bệnh nhân.
Giai đoạn I:
Giai đoạn II:
Giai đoạn III:
Giai đoạn IV:
Theo nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sống còn của bệnh nhân ung thư dạ dày được phẫu thuật tại Viện ung thư Iran: Phân tích đơn biến và đa biến” của Trung tâm Công nghệ Sinh học Mỹ năm 2014, tỷ lệ sống sót của những bệnh nhân ung thư dạ dày đã kết hôn thấp hơn những người độc thân. Và tỷ lệ sống sót của những bệnh nhân ung thư dạ dày không có tiền sử hút thuốc cao hơn những người đã từng.
Tình trạng hạch bạch huyết (N) được công nhận là yếu tố quan trọng nhất điều chỉnh tiên lượng của ung thư biểu mô tuyến dạ dày, đặc biệt đối với các dạng ung thư không được điều trị.
Phẫu thuật cắt bỏ được coi là một yếu tố tiên lượng quan trọng. Các bác sĩ phẫu thuật Nhật Bản đã chứng minh trong suốt 2 thập kỷ, việc kiểm soát khu vực tốt hơn bằng cách mổ rộng dẫn đến cải thiện khả năng sống sót bằng cách ngăn ngừa tái phát khu vực và do đó giảm di căn xa.
Mức độ xâm lấn thành dạ dày cũng tiên lượng ung thư biểu mô tuyến dạ dày đáng kể. Nhìn chung, khả năng sống sót tốt hơn đối với các khối u giai đoạn sớm (T1, T2) so với các khối u tiến triển lan rộng (T3, T4). (3)
Tỷ lệ tế bào bạch cầu trung tính (NLR) đã được một số nghiên cứu phân tích như một yếu tố tiên lượng. NLR cao gây tác động tới việc quay trở lại của phản ứng viêm tăng cao phụ thuộc vào bạch cầu trung tính và giảm phản ứng miễn dịch chống khối u qua trung gian tế bào lympho.
Điều này có thể làm suy yếu phản ứng miễn dịch của tế bào chống khối u qua trung gian tế bào lympho. Đồng thời nó cũng góp phần gây ra sự tiến triển của ung thư và tiên lượng xấu.
Hầu hết các nghiên cứu cho rằng ung thư biểu mô tế bào nhẫn có tiên lượng xấu hơn so với các loại mô học khác. Sự hiện diện của tế bào nhẫn ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ sống sót chung của bệnh nhân ung thư dạ dày.
Các dạng không biệt hóa và dạng chế nhầy có tiên lượng xấu so với dạng tuyến nhú và dạng tuyến ống.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, kích thước khối u là một yếu tố quan trọng trong việc chỉ định hóa trị bổ trợ cho khối u T3-4aN0M0; kích thước khối u là một yếu tố tiên lượng độc lập. Nghiên cứu cũng cho thấy, hóa trị bổ trợ giúp cải thiện tiên lượng sống ở bệnh nhân ung thư dạ dày T3-4aN0M0 với khối u lớn hơn 5cm, nhưng không cải thiện đối với khối u nhỏ hơn 5cm.
Nhiều nghiên cứu sâu hơn về yếu tố ảnh hưởng tới tiên lượng sống của bệnh nhân ung thư dạ dày cho thấy, di căn khoảng cách có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sống sót của bệnh nhân.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, số lượng phương pháp điều trị mới tiếp tục là một yếu tố tích cực đối với sự sống còn của bệnh nhân ung thư dạ dày. Do đó, với sự gia tăng số lượng phương pháp điều trị mới, nguy cơ tử vong sẽ giảm ở những bệnh nhân không được điều trị mới sau khi cắt dạ dày.
Bác sĩ Thành Trung cho biết, đối với bệnh nhân ung thư dạ dày được phẫu thuật, tình trạng dinh dưỡng trước mổ có ảnh hưởng trực tiếp đến tiên lượng sau mổ, tỷ lệ sống chung và thời gian sống riêng của từng bệnh nhân. Do đó, hỗ trợ dinh dưỡng trước phẫu thuật giúp kích thích miễn dịch, làm giảm các biến chứng tổng thể và giảm thời gian nằm viện.
Dinh dưỡng đường ruột sớm sau phẫu thuật giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng sớm và lâu dài sau phẫu thuật, đồng thời giảm thời gian nằm viện.
Thiếu vitamin B12 và thiếu sắt là những di chứng chuyển hóa thường gặp sau khi cắt dạ dày và cần phải thay thế thích hợp. Ở những bệnh nhân suy dinh dưỡng với ung thư dạ dày giai đoạn nặng, dinh dưỡng bổ sung ngắn hạn tại nhà giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, tình trạng dinh dưỡng và tình trạng chức năng.
Hướng dẫn S3 của Đức khuyến nghị, hỗ trợ dinh dưỡng cho tất cả bệnh nhân ung thư dạ dày có chế độ ăn uống không đủ. Tình trạng này được định nghĩa là lượng thức ăn qua đường miệng <500 kcal/ngày hoặc ≤75% nhu cầu trong hơn 1-2 tuần.
Dinh dưỡng có thể được thực hiện qua ống thông mũi-dạ dày hoặc thông mũi-tâm-môn trong thời gian ngắn. Ngoài ra, có thể thông qua phẫu thuật mở hỗng tràng để bổ sung dinh dưỡng.
Bên cạnh đó, việc bổ sung dinh dưỡng miễn dịch trước phẫu thuật cũng được khuyến nghị cho bệnh nhân ung thư dạ dày. Dung dịch dinh dưỡng được làm giàu bằng các chất dinh dưỡng kích thích miễn dịch (arginine, axit béo ω-3 và nucleotide) bằng đường uống hoặc đường ruột được gọi là dinh dưỡng miễn dịch.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, dinh dưỡng miễn dịch trước phẫu thuật làm giảm đáng kể các biến chứng tổng thể và thời gian nằm viện nhưng không gây tử vong.
Theo đó, Hướng dẫn ESPEN, Hướng dẫn S3 của Đức cho GC và Hội nghị thượng đỉnh dinh dưỡng phẫu thuật Bắc Mỹ khuyến nghị, bổ sung dinh dưỡng qua đường miệng/đường ruột cho bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa trên 5-7 ngày trước khi phẫu thuật. Và tiếp tục bổ sung dinh dưỡng miễn dịch cho đến khi qua giai đoạn hậu phẫu.
Ngoài ra, nạp carbohydrate vào đêm trước khi phẫu thuật làm giảm sự đề kháng insulin và glycosyl hóa mô do phẫu thuật gây ra, giúp kiểm soát đường huyết sau phẫu thuật và duy trì chức năng bình thường của ruột.
Vai trò của hỗ trợ dinh dưỡng sau phẫu thuật là duy trì tình trạng dinh dưỡng trong giai đoạn dị hóa sau phẫu thuật. Dinh dưỡng sớm sau phẫu thuật làm giảm chuyển hóa cao liên quan đến chấn thương phẫu thuật, duy trì chức năng của hàng rào niêm mạc ruột và giảm tỷ lệ nhiễm trùng đường ruột, giúp bệnh nhân nhanh hồi phục.
Bệnh nhân phẫu thuật đường tiêu hóa trên thường được cung cấp một ống thông hỗng tràng qua da để bổ sung dinh dưỡng sau phẫu thuật. Thời gian bắt đầu bổ sung dinh dưỡng được khuyến nghị là 6 giờ sau khi phẫu thuật. Ống này cũng có thể được tiếp tục sử dụng sau khi xuất viện tùy theo nhu cầu của bệnh nhân.
Ngoài ra, dinh dưỡng đường uống sớm sau phẫu thuật ung thư dạ dày cũng an toàn và không làm tăng tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật so với dinh dưỡng qua ống thông mũi-dạ dày.
Thiếu máu là một biến chứng thường gặp sau khi cắt dạ dày, cùng với thiếu vitamin B12 hoặc folate. Tình trạng dinh dưỡng kém và giảm lượng sắt trong khẩu phần ăn có thể dẫn đến tình trạng cạn kiệt sắt sau phẫu thuật dạ dày.
Việc điều trị bệnh thiếu máu do thiếu sắt đòi hỏi phải điều chỉnh sự thiếu hụt trong hemoglobin lưu thông, bổ sung lượng thiếu hụt dự trữ và điều chỉnh bất kỳ nguồn mất máu bất thường nào có thể điều trị được.
Trong hướng dẫn S3 của Đức khuyến cáo, bổ sung vitamin B12 sau khi phẫu thuật. Sử dụng vitamin B12 có hiệu quả cả qua đường tiêm dưới da và đường uống.
Ở những bệnh nhân ung thư dạ dày bị hẹp môn vị, việc đặt một stent có thể cho phép dinh dưỡng qua đường miệng, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Các hướng dẫn của Hiệp hội Dinh dưỡng Lâm sàng và Chuyển hóa Châu Âu khuyến nghị, áp dụng dinh dưỡng tĩnh mạch khi có thể dự kiến lượng thức ăn không đủ dưới 60% năng lượng ước tính trong hơn 10 ngày.
Đối với những bệnh nhân đang hóa trị gặp phải các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa liên quan đến hóa trị (tức là chán ăn, buồn nôn, nôn, táo bón và tiêu chảy), bổ sung dinh dưỡng tĩnh mạch hoàn toàn được khuyến cáo để ổn định cân nặng và tiếp tục điều trị.
Đối với những bệnh nhân bị ung thư phúc mạc và suy giảm nghiêm trọng chức năng tiêu hóa, dinh dưỡng tĩnh mạch toàn phần là bắt buộc. Ngoài ra, phương pháp này cũng được khuyến nghị cho bệnh nhân mắc Hội chứng ruột ngắn do phẫu thuật rộng.
Ung thư dạ dày là sự phát triển không kiểm soát của các tế bào ác tính trong dạ dày. Hầu hết mọi người không có triệu chứng cho đến khi bệnh ở giai đoạn nặng. Do đó, ung thư dạ dày là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới.
Bác sĩ Thành Trung khuyến nghị, người dân nên thăm khám sức khỏe định kỳ mỗi năm ít nhất một lần. Đối với người có yếu tố nguy cơ cao như nhiễm trùng do vi khuẩn H. pylori, Polyp dạ dày, từ 50 tuổi trở lên, béo phì, tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư dạ dày và/hoặc viêm ruột, hút thuốc lá, uống rượu bia, viêm loét dạ dày… nên thực hiện tầm soát ung thư dạ dày. Tầm soát là việc kiểm tra để tìm dấu ấn ung thư trước khi bộc lộ bất kỳ triệu chứng nào. Ung thư dạ dày được phát hiện và điều trị từ giai đoạn sớm cho tiên lượng sống sau 5 năm tốt hơn và ngược lại.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Ung thư dạ dày sống được bao lâu? Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó thời điểm phát hiện bệnh giúp tiên lượng tỷ lệ sống sau 5 năm của bệnh nhân. Do đó, thăm khám sức khỏe định kỳ và chủ động tầm soát ung thư dạ dày để điều trị ở giai đoạn sớm có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm tỷ lệ tử vong do ung thư dạ dày.