Phương pháp chụp mạch vành kinh điển có những “điểm mù”, khó xác định nguyên nhân gây nhồi máu cơ tim, với khoảng 25% trường hợp, điều này được khắc phục với kỹ thuật OCT.

“OCT (Optical Coherence Tomography) – kỹ thuật chụp cắt lớp kết quang nội mạch – giúp phát hiện chính xác nguyên nhân mà chụp mạch vành đã bỏ lỡ”, ThS.BS Phạm Hoàng Trọng Hiếu, Trung tâm Tim mạch Can thiệp, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, khẳng định tại Hội nghị Khoa học thường niên 2025 do Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh tổ chức.
GS.TS.BS Võ Thành Nhân, Giám đốc Trung tâm Tim mạch Can thiệp, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, cho biết nếu như chụp mạch vành kinh điển chỉ cho thấy “bóng” lòng mạch, thì OCT lại mở ra một kỷ nguyên mới, cho phép bác sĩ nhìn thấy tận mắt từng chi tiết nhỏ nhất bên trong động mạch vành với độ phân giải cao gấp 10 lần siêu âm nội mạch. Kỹ thuật hiện đại này còn khá mới ở Việt Nam, hiện mới chỉ được triển khai ở một số trung tâm tim mạch lớn.
OCT mạch vành hiện được coi là “tiêu chuẩn vàng” trong đánh giá hình thái tổn thương động mạch vành, vượt trội so với chụp mạch vành thông thường (chỉ thấy hình bóng lòng mạch). Kỹ thuật này dùng ánh sáng hồng ngoại để tái tạo hình ảnh chi tiết bên trong lòng động mạch vành với độ phân giải cực cao (10-20 micron, cao hơn nhiều so với siêu âm nội mạch – IVUS).
Nhờ OCT, bác sĩ có thể quan sát rõ ràng độ dày, thành phần và cấu trúc mảng xơ vữa; vị trí và mức độ nứt vỡ mảng xơ vữa (nguyên nhân gây nhồi máu cơ tim cấp); đánh giá chính xác kích thước lòng mạch, giúp lựa chọn stent phù hợp; đồng thời kiểm tra ngay sau đặt stent để xem stent có áp sát thành mạch, có còn khoảng hở hay bị bóp méo không, nâng cao độ chính xác, an toàn và hiệu quả điều trị.

Theo Giáo sư Nhân, tái hẹp stent là một trong những thách thức lớn nhất sau can thiệp, chiếm khoảng 5-15% tổng số ca. Nguyên nhân chính thường do stent không được nong nở hết cỡ, một vấn đề mà phim chụp mạch vành thông thường rất khó phát hiện chính xác. OCT, với khả năng đo đạc chi tiết, giúp bác sĩ đảm bảo stent được nong tới kích thước tối ưu, nhờ đó giảm nguy cơ tái hẹp. Nghiên cứu OCCUPI cho thấy tỷ lệ tái hẹp stent ở nhóm dùng OCT thấp hơn gần 3 lần so với nhóm chỉ dùng phương pháp chụp mạch vành truyền thống (1.1% so với 3.5%).
Ngoài ra, huyết khối trong stent cũng là biến chứng cấp tính và nguy hiểm, có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim hoặc tử vong. OCT với độ phân giải siêu cao cho phép bác sĩ nhìn thấy và sửa chữa ngay lập tức dù là những khoảng hở nhỏ nhất giữa stent và thành mạch, ngăn không cho cục máu đông có cơ hội hình thành.
Nghiên cứu ILUMIEN IV cho thấy trên các ca phức tạp, OCT giúp giảm tới 61% nguy cơ hình thành huyết khối trong stent so với chụp mạch vành (tỷ lệ sau 2 năm chỉ là 0.6% ở nhóm OCT so với 1.6% ở nhóm chụp mạch). Còn một phân tích gộp từ 22 thử nghiệm lâm sàng cũng chứng minh, các kỹ thuật hình ảnh học nội mạch (như OCT) giúp giảm 48% nguy cơ huyết khối trong stent so với phương pháp cũ.
Bác sĩ Hiếu dẫn trường hợp bệnh nhân Trung, 61 tuổi, bị suy hô hấp do nhồi máu cơ tim, được can thiệp nong mạch thành công với sự hỗ trợ của kỹ thuật OCT – chụp cắt lớp kết quang nội mạch.
Nhập viện với bệnh cảnh nhồi máu cơ tim cấp không ST chênh lên (NSTEMI), mạch vành của người bệnh bị tắc nghẽn một phần, khiến nhu cầu oxy của tim không được đáp ứng, gây tổn thương cơ tim. So với nhồi máu cơ tim có ST chênh lên (STEMI), tổn thương tim do nhồi máu cơ tim không ST chênh lên gây biến chứng nghiêm trọng nhưng khó phát hiện do ít biểu hiện triệu chứng và trên điện tâm đồ.
Trước đó vài giờ, ông Trung đau ngực trái từng cơn kèm khó thở, choáng váng. Khi đến viện, ông đã rơi vào trạng thái suy hô hấp cấp tính, đe dọa tính mạng. Bệnh nhân được chỉ định chụp động mạch vành (Angiography) – tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh lý mạch vành.
Tuy nhiên, phương pháp này thực chất chỉ là một hình ảnh X-quang hai chiều của lòng mạch (lumenogram), do đó có những hạn chế trong việc xác định bản chất của mảng xơ vữa gây ra biến cố. Kết quả chụp mạch vành sau đó cũng không tìm được tổn thương nào là “thủ phạm” gây ra cơn nhồi máu cơ tim cho ông Trung.
Xác định chính xác thủ phạm là mục tiêu cốt lõi để điều trị thành công các ca nhồi máu cơ tim. Trước đây, khi các kỹ thuật hình ảnh học trong lòng mạch như chụp cắt lớp kết quang nội mạch (OCT) hay siêu âm trong lòng mạch (IVUS) chưa ra đời, việc chẩn đoán và đưa ra quyết định can thiệp phụ thuộc hoàn toàn vào hình ảnh chụp mạch vành kinh điển.
Giáo sư Nhân lý giải, trong bối cảnh hội chứng vành cấp, chụp mạch vành cản quang (Coronary Angiography) bộc lộ nhiều “điểm mù”. Phương pháp này không cho phép đánh giá cấu trúc thành mạch, đặc điểm mảng xơ vữa (vỏ mỏng, lõi lipid lớn, hay tình trạng vỡ, xói mòn). Do chỉ nhìn thấy được lòng mạch, việc lựa chọn kích thước stent dựa trên Angiography có thể không chính xác so với đường kính thực của mạch máu, dẫn đến nguy cơ stent không nở tốt, không áp thành hoặc sai kích thước, làm tăng khả năng tái hẹp về sau.
Để giải quyết ca bệnh phức tạp, cứu bệnh nhân qua cơn nguy kịch, ê kíp sử dụng kỹ thuật chụp cắt lớp kết quang nội mạch. Với độ phân giải siêu cao, gấp 10 lần siêu âm trong lòng mạch (IVUS), OCT cho phép “nhìn thấu” vào cấu trúc vi thể bên trong thành mạch. Kỹ thuật này đã phát hiện chính xác nguyên nhân mà chụp mạch vành đã bỏ lỡ: một mảng xơ vữa không ổn định đã bị vỡ, hình thành huyết khối gây hẹp nghẽn động mạch liên thất trước, gây ra cơn nhồi máu cơ tim cấp.
Dựa trên hình ảnh OCT, ê kíp xây dựng chiến lược can thiệp tối ưu: đo đạc chính xác đường kính tham chiếu của mạch máu và chiều dài sang thương để lựa chọn kích thước stent phù hợp nhất. Sau khi đặt stent thành công trong 30 phút, kỹ thuật OCT tiếp tục được sử dụng để đánh giá và tối ưu hóa kết quả, đảm bảo stent nở tròn đều, áp sát hoàn toàn vào thành mạch, đồng thời kiểm tra kỹ lưỡng các mép stent để loại trừ biến chứng như bóc tách có thể gây huyết khối cấp trong stent.
Ngay khi dòng chảy mạch vành được tái thông, các triệu chứng của bệnh nhân cải thiện rõ rệt. Tình trạng khó thở giảm dần, các chỉ số huyết động ổn định hơn. Ông Trung xuất viện khi sức khỏe ổn định sau một tuần điều trị. Giáo sư Nhân chia sẻ: “Đây là một thành công lớn, thể hiện sự phối hợp nhịp nhàng giữa hồi sức nội khoa và can thiệp tim mạch, mang lại kết quả tối ưu cho một ca bệnh rất nặng”.

Theo bác sĩ Hiếu, trường hợp của ông Trung là minh chứng điển hình cho thấy vai trò không thể thiếu của hình ảnh học nội mạch. Trong những ca hội chứng vành cấp mà hình ảnh Angiography không rõ ràng, OCT đóng vai trò quyết định, giúp xác định chính xác cơ chế gây bệnh, dù là vỡ mảng xơ vữa, xói mòn mảng xơ vữa hay nốt vôi hóa. Việc này cho phép bác sĩ cá thể hóa chiến lược điều trị, từ đó tối ưu hóa kết quả trước mắt và lâu dài cho người bệnh.
Đặt stent là giải pháp can thiệp hiệu quả tại vị trí mạch máu bị tắc nghẽn, nhưng không thể điều trị được bản chất của bệnh lý toàn thân là xơ vữa động mạch. Vì vậy, để giảm thiểu nguy cơ tái phát biến cố tim mạch trong tương lai, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ điều trị nội khoa, đặc biệt là liệu pháp kháng tiểu cầu kép và kiểm soát chặt chẽ các yếu tố nguy cơ: duy trì lối sống khoa học (ngưng thuốc lá, hạn chế rượu bia, tăng cường vận động), tuân thủ chế độ ăn tốt cho tim mạch và điều trị ổn định các bệnh nền.
* Tên bệnh nhân đã được thay đổi
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH