Bà Nguyễn Thị Liễu (72 tuổi, Hà Nội) từng thay van tim cách đây hơn 20 năm, hiện suy tim giai đoạn cuối, suy đa tạng, được bác sĩ phẫu thuật thay lại van tim thoát nguy kịch.

Bà Liễu có tiền sử bệnh thấp tim, cách đây 24 năm từng phẫu thuật thay van hai lá. Khoảng 4 năm trước, người bệnh bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn – tình trạng nhiễm trùng lớp nội mạc bên trong tim, thường gặp ở van tim hoặc mặt trong buồng tim, dẫn đến biến chứng nhiễm trùng máu phá hỏng van nhân tạo, gây hở van nặng, suy tim tiến triển nhanh. Mặc dù thời điểm đó đã có chỉ định phẫu thuật thay lại van song lo ngại nhiều rủi ro của ca mổ tim lần hai nên bà Liễu cùng gia đình đã từ chối phẫu thuật và tiếp tục điều trị nội khoa.
Tháng 4/2025, bà Liễu đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh thăm khám và nhập viện trong tình trạng suy tim giai đoạn cuối (NYHA IV). Người bệnh thường xuyên mệt mỏi, khó thở, phù chân tay, chỉ có thể đứng dậy và đi lại vài bước, gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt thường ngày. Thăm khám cho thấy gan to dưới bờ sườn phải 5-7 cm, tràn dịch màng phổi, tăng áp động mạch phổi nặng (ước tính trên 80 mmHg), hở van hai lá và ba lá mức độ nặng.
TTND.PGS.TS.BS.CKII Nguyễn Hữu Ước, Trưởng khoa Phẫu thuật Tim, Mạch máu và Lồng ngực, cho biết, thể trạng chung của bệnh nhân Liễu rất kém, tim bên phải to, phổi giãn lớn như quả bóng do tăng áp động mạch phổi kéo dài. Tình trạng suy tim tiến triển gây suy giảm chức năng gan, thận, rối loạn đông máu do phải sử dụng thuốc liều cao lâu ngày và nhiều rối loạn chức năng khác, làm chậm các phản xạ thần kinh…
Nếu không phẫu thuật thì thời gian sống còn lại của người bệnh rất ngắn. Khoảng 90% bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối có thể tử vong trong vòng 6 – 12 tháng nếu không được can thiệp phẫu thuật.

PGS Ước nhấn mạnh đây là ca mổ tim hở rất phức tạp do bệnh nhân Liễu từng phẫu thuật tim, vùng mổ cũ bị dính nhiều, đường vào tiếp cận khó. Thêm vào đó, người bệnh tuổi cao, suy tim kéo dài làm suy đa tạng trong cơ thể khiến nguy cơ cao gặp các biến cố trong và sau mổ, việc chăm sóc sau mổ vô cùng khó khăn.
Sau nhiều lần hội chẩn đa chuyên khoa và nhận được sự đồng thuận của bệnh nhân và người nhà, bác sĩ quyết định tiến hành phẫu thuật cho bà Liễu tại thời điểm điều trị nội khoa tối ưu để cải thiện suy tim.
Ngay trong ca mổ, nhiều vấn đề xảy ra khó khăn hơn dự kiến. Trước tiên là phải đặt hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể qua đường đùi để giảm nguy cơ rung tim và chảy máu khi mở ngực. Rồi đến việc gỡ dính rất khó khăn do tim to, dính chặt sau xương ức do lần mổ đầu tiên đã không đóng màng tim.
Sau khi gỡ được tim và bộc lộ van tim cũ, van nhân tạo này hỏng nặng hơn dự đoán – van bị hoại tử do nhiễm trùng, thủng và rách nát hoàn toàn. Êkíp mổ phải bóc tách tổ chức viêm, cắt bỏ vòng van cũ và thay van mới. Do đặc điểm bệnh nhân từng bị thấp tim, vòng van rất nhỏ, nên êkíp mổ phải chọn loại vòng van nhân tạo nhỏ nhất có trên thị trường. Quá trình đặt van cũng phải cực kỳ cẩn trọng để tránh rách vòng van gây nguy hiểm tính mạng người bệnh.
Cuộc mổ diễn ra cam go, êkíp tranh thủ từng phút giây vì thời gian phẫu thuật càng kéo dài càng bất lợi cho người bệnh. Việc chạy máy tim phổi nhân tạo – kỹ thuật thay thế chức năng tim phổi trong lúc ngưng tim tạm thời để thực hiện phẫu thuật – nếu duy trì lâu dễ gây biến chứng rối loạn chức năng các cơ quan. Bên cạnh yếu tố thời gian, các thao tác kỹ thuật cũng phải đảm bảo chính xác từng bước vì chỉ một biến cố nhỏ xảy ra thôi cũng có thể để lại hậu quả vô cùng lớn. Sau cùng, may mắn ca mổ đã kết thúc thành công.

Giai đoạn sau mổ tiếp tục là thử thách quan trọng, bà Liễu phải đối mặt với những biến chứng nguy hiểm là tăng áp động mạch phổi, phù phổi và suy đa cơ quan. Mặc dù cơ tim trái co bóp tốt sau mổ, song phổi và các tạng khác diễn tiến nặng trong 3-4 ngày đầu, từng có lúc tiên lượng khả năng sống sót của người bệnh ở mức cực xấu. Đối mặt với tình trạng này, thông thường giải pháp được ưu tiên là đặt ECMO – hệ thống hỗ trợ tuần hoàn và hô hấp ngoài cơ thể, tạm thời để tim phổi của người bệnh được nghỉ ngơi và có thời gian phục hồi.
Tuy nhiên việc đặt ECMO sẽ đi kèm với nguy cơ chảy máu và nhiễm trùng, rất nguy hiểm trong trường hợp của bà Liễu. Vì vậy, bác sĩ quyết định sử dụng giải pháp lọc máu liên tục tại chỗ, loại bỏ các chất độc, nước thừa và chất điện giải dư thừa trong máu một cách chậm rãi, liên tục suốt 24 giờ.
Sau khi lọc máu, tình trạng của bà Liễu dần dần chuyển biến theo hướng tích cực. Người bệnh tiểu được, tình trạng phù phổi giảm dần, chỉ số huyết áp từ tụt rất thấp dần ổn định hơn, các thông số tuần hoàn cải thiện, liều thuốc trợ tim từ rất cao được giảm xuống.
Vấn đề đặt ra tiếp theo là bà Liễu cần cai máy thở kéo dài. Thông thường với bệnh nhân nặng, các bác sĩ sẽ mở khí quản để hỗ trợ hô hấp, song bà Liễu có vùng cổ ngắn, to, vết mổ tim sát nền cổ nên nguy cơ cao bị nhiễm trùng vết mổ nếu mở khí quản.
Bác sĩ quyết định chuẩn bị song song hai phương án, vừa sẵn sàng phương tiện mở khí quản, vừa phục hồi hô hấp tích cực, giúp bệnh nhân tập thở chủ động với hy vọng có thể rút ống nội khí quản mà không phải mở khí quản. Sau khoảng 3 ngày tập thở cho kết quả tốt, bà Liễu đã tự thở được thành công, đây cũng là diễn tiến quan trọng góp phần tích cực cho sự phục hồi của bệnh nhân.
Sau hơn 10 ngày nằm ở phòng hồi sức tích cực và hơn 1 tuần được chuyển về phòng bệnh thường, bà Liễu đã được xuất viện và dần trở lại với những sinh hoạt bình thường. Người bệnh được tiếp tục điều trị nội khoa và tái khám định kỳ, vượt qua nguy hiểm, tiên lượng sống tốt.

Theo PGS Ước, tỷ lệ sống của bệnh nhân sau phẫu thuật thay van tim là trên 90% sau 5 năm và trên 80% sau 10 năm. Hiện nay, với sự phát triển của kỹ thuật phẫu thuật tim hở, máy móc hỗ trợ tuần hoàn và phương pháp hồi sức tích cực, phẫu thuật thay van tim không chỉ nâng cao tỷ lệ sống sót mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh suy van tim nặng.
Đặc biệt, với sự phối hợp đa chuyên khoa chặt chẽ và chăm sóc sau mổ toàn diện, nhiều bệnh nhân như bà Liễu có cơ hội phục hồi tốt dù trước đó hy vọng sống mong manh, tình trạng bệnh nặng, nhiều nguy cơ và biến chứng nghiêm trọng.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH