Bé Hưng, 2 tuổi, chào đời với khối u nhỏ vùng bụng bìu, 2 năm qua khối u lớn dần và to gần 1/3 cơ thể bé, gây chèn ép vùng bụng dưới gây sưng đau, hạn chế vận động.

BS.CKII Nguyễn Đỗ Trọng, khoa Ngoại Nhi, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, cho biết kết quả chụp CT ghi nhận dị dạng mạch máu dạng nang len lỏi trong mô dưới da vùng thành bụng và bẹn bìu của bé. Chẩn đoán bệnh nhi bị u mạch bạch huyết thể hỗn hợp, tức có cả thành phần microcystic (nang nhỏ) và macrocystic (nang lớn) nằm rải rác phần thân dưới. Trong đó, khối u lớn nhất có kích thước bên ngoài dày 6 mm, dài 24 cm, chiếm gần hết một nửa cơ thể về chiều ngang và gần 1/3 chiều dọc (bé cao 92 cm). Kích thước khối u trong ổ bụng là 39x44x53mm, đẩy lệch bàng quang bên trái, ngày càng phát triển, chèn ép các cơ quan lân cận.

“Với tính chất lan tỏa và kích thước lớn như mô tả trên CT, phẫu thuật bóc tách toàn bộ sẽ cực kỳ khó khăn, nguy cơ tổn thương các mạch máu và thần kinh xung quanh cao, mất máu nhiều và có khả năng tái phát cao do không thể loại bỏ hết các nhánh nhỏ len lỏi”, bác sĩ Trọng nói, thêm rằng việc phẫu thuật còn gây sẹo lớn, ảnh hưởng đến thẩm mỹ của trẻ về sau.
Bệnh nhi được chỉ định chích xơ ở vùng bìu, hông và lưng, rút được 150ml dịch máu không đông, bé giảm đau, đi đứng được, xuất viện sau 1 ngày.
Theo bác sĩ Trọng, lần can thiệp này chỉ chích xơ ở những khối u lớn giúp bệnh nhi giảm áp lực và cải thiện triệu chứng cấp tính do xuất huyết và chèn ép. Mục tiêu điều trị là kiểm soát sự phát triển của khối u, ngăn ngừa biến chứng và tối ưu hóa chất lượng sống cho bé. Với các khối u nhỏ hơn, cần tiếp tục theo dõi, nếu phát triển to hơn sẽ được hút dịch hoặc tiêm xơ lại nếu cần. Nếu không đáp ứng điều trị sẽ được cân nhắc phẫu thuật.

U mạch bạch huyết ở trẻ là một loại khối u lành tính hình thành từ sự phát triển bất thường của hệ thống mạch bạch huyết. Hệ thống mạch bạch huyết là một phần của hệ miễn dịch, giúp thu thập và vận chuyển dịch bạch huyết (một chất lỏng chứa tế bào miễn dịch và chất thải) đi khắp cơ thể.
Hầu hết các trường hợp u mạch bạch huyết là bẩm sinh, do sự phát triển không hoàn chỉnh của hệ thống bạch huyết trong quá trình phát triển của thai nhi. Bệnh được chia thành ba loại, gồm u nang bạch huyết (Cystic hygroma), u mạch bạch huyết thể mao mạch (Capillary lymphangioma) và u mạch bạch huyết thể hang (Cavernous lymphangioma).
Triệu chứng dễ nhận thấy nhất là sự xuất hiện của một khối u sưng to, mềm, không đau dưới da. Khối u thường xuất hiện ở vùng đầu, cổ, nách, bẹn hoặc trong khoang bụng. Sự nguy hiểm của khối u phụ thuộc vào vị trí xuất hiện. Nếu ở cổ có thể gây khó thở, khó nuốt nếu khối u lớn chèn ép khí quản hoặc thực quản; ở mặt sẽ gây biến dạng khuôn mặt, ảnh hưởng đến thị lực hoặc thính giác nếu chèn ép các cấu trúc quan trọng; ở các chi có thể làm sưng to tay chân, gây khó khăn trong vận động; trong khoang bụng hoặc ngực sẽ gây đau bụng, khó thở, nôn mửa… Khối u còn có thể bị nhiễm trùng, gây sưng nóng, đỏ, đau và sốt.
Các khối u sẽ phát triển cùng với sự lớn lên của trẻ. Tùy từng trường hợp, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị cụ thể cũng như thời điểm can thiệp phù hợp. Đối với các khối u nhỏ, không gây triệu chứng thường sẽ được theo dõi định kỳ, u có thể tự biến mất hoặc giảm kích thước theo thời gian. Với các khối u nang lớn sẽ được chỉ định chích xơ để làm u co lại và xơ hóa, có thể cần tiêm nhiều lần. Với các khối u lớn có nguy cơ biến chứng, trẻ cần được phẫu thuật để loại bỏ toàn bộ. Nếu là u mạch bạch huyết lớn, phức tạp hoặc không thể phẫu thuật, trẻ sẽ được dùng thuốc để kiểm soát sự phát triển của khối u.
Bác sĩ Trọng cho biết, tuy lành tính song phụ huynh không nên chủ quan, nếu trẻ có bất kỳ biểu hiện nào của bệnh cần đưa đi khám tại các cơ sở y tế để được chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị phù hợp.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH