Ước tính có khoảng 50% phụ nữ bị sa sinh dục ở mức độ nào đó, từ nhẹ đến nặng trong suốt cuộc đời. Các triệu chứng bao gồm đau tức bụng, khối sa, rối loạn tiểu tiện (són tiểu hoặc khó tiểu, tiểu không hết), rối loạn đại tiện (són phân, táo bón) và các triệu chứng tình dục: giảm ham muốn, khó quan hệ, quan hệ đau, không đạt cực khoái,… ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tâm lý cũng như chất lượng cuộc sống của người bệnh. Bài viết này, đại tác, bác sĩ cao cấp, CKII Nguyễn Thị Hồng Oanh, Đơn vị Niệu nữ, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh TP.HCM sẽ tư vấn về các nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán, điều trị tình trạng này.
Sa sinh dục hay còn gọi là sa các tạng vùng chậu (POP- Pelvic Organ Prolapse) là sự tụt xuống của tử cung, bàng quang, trực tràng, thành trước, thành sau âm đạo khỏi vị trí giải phẫu bình thường và đi xuống âm đạo, do suy yếu các cấu trúc cân cơ và dây chằng nâng đỡ tại sàn chậu. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách, tình trạng này có thể tiến triển nhanh và gây nhiều biến chứng nguy hiểm.
Âm đạo là 1 kênh kết nối với tử cung và là đường sinh nở tự nhiên của phụ nữ. Khi có khối sa, người bệnh sẽ cảm giác như có gì đó vướng víu bên trong âm đạo (cửa mình), giống như có 1 bong bóng nhỏ trong âm đạo. Nếu sa sinh dục mức độ nặng, khối sa có thể bị đẩy ra khỏi âm đạo và dễ dàng quan sát được. (1)
Trong suốt cuộc đời người phụ nữ, do hoạt động thể chất, lao động, quá trình mang thai, sinh nở, tuổi tác mà sàn chậu có thể bị suy yếu (bị giãn ra hay giảm trương lực) không giữ được các cơ quan trong khung chậu ở vị trí bình thường dẫn đến sa tạng chậu hay còn gọi là sa sinh dục, nếu có kèm theo các sang chấn ở vùng chậu, tai biến sản khoa có thể làm cho tình trạng này nặng nề thêm.
Sa sinh dục nhẹ có thể không gây bất kỳ triệu chứng hoặc ảnh hưởng gì đến người bệnh. Ở mức độ trung bình hoặc nặng có thể gây các triệu chứng khó chịu khi đi tiểu, rối loạn tiêu hóa, ảnh hưởng đến hoạt động tình dục. Sa sinh dục toàn phần là mức độ nghiêm trọng nhất, gây đau và khó chịu ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt, lao động và có thể biến chứng nặng như thận ứ nước, viêm loét khối sa, tắc ruột do táo bón lâu ngày,… nên cần được can thiệp điều trị tích cực bằng phẫu thuật để sửa chữa và đưa các cơ quan vùng chậu về đúng vị trí.
Các triệu chứng sa sinh dục biểu hiện tùy theo mức độ sa xuống của các cơ quan vùng chậu. Các triệu chứng thường gặp bao gồm:
Một số người không cảm thấy bất kỳ triệu chứng nào của sa âm đạo vì mức độ sa nhẹ. Trong suốt thai kỳ, các dấu hiệu nhẹ có thể xuất hiện và được phát hiện qua khám thai hoặc khám phụ khoa định kỳ.
Nguyên nhân chính gây sa sinh dục là sự suy yếu của nhóm cơ và các mô tại sàn chậu, làm suy yếu cấu trúc hỗ trợ các cơ quan vùng chậu. Sự suy yếu này có thể đến từ quá trình mang thai, sinh nở và lão hóa tự nhiên hay do các phẫu thuật ở vùng chậu hoặc tai biến sản khoa.
Trong quá trình mang thai, tử cung tăng kích thước cùng với trọng lượng của thai khiến cho cân cơ, mạch máu thần kinh vùng sàn chậu bị chèn ép, cùng với sự thay đổi của nội tiết trong thai kỳ ở từng giai đoạn, đặc biệt có sự gia tăng nội tiết tố Progesterone (có tác dụng dưỡng thai) nhưng cũng làm giãn cơ và cân dây chằng của sàn chậu, cơ trơn niệu quản, bàng quang, âm đạo và ruột.
Việc sinh nở qua đường âm đạo (đường tự nhiên) làm tăng nguy cơ mắc sa sinh dục. Nguy cơ này có thể tăng cao hơn trong trường hợp sinh nhiều lần, thời gian chuyển dạ kéo dài, kích thước em bé lớn, sinh nở phải tiến hành rạch và khâu tầng sinh môn hay có can thiệp giác hút hoặc đặt Forcef (dụng cụ y tế dùng để hỗ trợ trong quá trình sinh nở).
Trong thời kỳ mãn kinh, buồng trứng ngừng sản xuất hormone estrogen điều chỉnh chu kỳ kinh nguyệt. Hormone estrogen đặc biệt quan trọng vì nó giúp giữ cho các mô và cơ vùng chậu khỏe mạnh, săn chắc và đàn hồi tốt. Khi cơ thể không tạo ra estrogen như trước, hệ thống nâng đỡ sàn chậu sẽ trở nên yếu và phụ nữ có thể phát triển tình trạng sa tạng chậu như 1 quá trình tất yếu.
Những người từng trải qua phẫu thuật cắt bỏ tử cung hoàn toàn để điều trị ung thư cổ tử cung, có nguy cơ cao bị sa sinh dục. Vì bàng quang và tử cung, trực tràng đều được giữ cùng với nhau bởi hệ thống dây chằng và cân cơ sàn chậu, khi 1 trong các cơ quan bị cắt bỏ sẽ không còn chỗ dựa cho các cơ quan còn lại.
Khi già đi, ai cũng có nguy cơ cao mắc sa sinh dục. Cùng với tiến trình lão hóa của con người và sự suy giảm chức năng của toàn bộ các cơ quan trong cơ thể có thể khiến dây chằng, cơ cân, cơ nâng,… vùng tạng chậu suy yếu.
Lao động cường độ cao, nâng hoặc khuân vác vật nặng, hoạt động thể chất như tập tạ cũng có thể làm suy yếu cân cơ cơ sàn chậu và khiến các cơ quan vùng chậu bị sa xuống khỏi vị trí ban đầu.
Nếu trong gia đình có mẹ, chị gái hoặc em gái bị sa sinh dục do cân cơ và dây chằng sàn chậu suy yếu bẩm sinh, bạn có nguy cơ cao mắc bệnh sau này.
Ngoài ra, các nguyên nhân tăng áp lực lên vùng bụng cũng có thể gây sa sinh dục, bao gồm:
Tạng chậu (tạng vùng chậu) bao gồm tử cung, âm đạo, trực tràng, bàng quang và niệu đạo, được giữ bởi hệ thống cố định giống như 1 chiếc võng hay chiếc ô lộn ngược, giúp cố định tạng chậu ở đúng vị trí gọi là sàn chậu. Theo thời gian hoặc do các yếu tố khác như đã nêu ở trên, chiếc ô lộn ngược này có thể bắt đầu sụp xuống khiến một vài cơ quan hoặc tất cả cơ quan vùng chậu bị rơi xuống theo.
Tên gọi của các loại sa sinh dục sẽ khác nhau, tùy thuộc vào cơ quan nào bị sa. Các loại sa sinh dục thường gặp có thể bao gồm:
Có nhiều cách phân loại sa sinh dục, để cho người đọc dễ hình dung, dựa theo vị trí của tạng sa so với chiều dài của ống âm đạo, có thể chia thành 4 giai đoạn: (2)
Sa sinh dục độ 1 là giai đoạn nhẹ nhất của bệnh, xảy ra khi các cơ quan vùng chậu chỉ bị trượt xuống âm đạo 1 chút. Ở giai đoạn này, bệnh chưa gây bất kỳ triệu chứng hay ảnh hưởng tiêu cực lên sức khỏe, chất lượng cuộc sống của người bệnh. Tránh nâng vật nặng, tập các bài tập cơ sàn chậu (bài tập kegel) có thể giúp khắc phục sa sinh dục giai đoạn I.
Sa sinh dục độ 2 là khi tạng chậu sa 1 phần vào âm đạo, nhưng phần trên của tạng vẫn nằm trong khung chậu. Khi này, người bệnh thường cảm giác nặng nề hoặc tưng tức ở vùng bụng dưới, có 1 bong bóng nhỏ phình trong âm đạo, hoặc thấy khó khăn khi đi tiểu, tiểu không hết hoặc khó đại tiện, táo bón,…
Khi này, bác sĩ có thể khuyến khích người bệnh tập các bài tập sàn chậu, đặt lưới nâng âm đạo hoặc phẫu thuật để cố định các cơ quan bị sa xuống.
Sa sinh dục độ 3 là khi bàng quang, tử cung hay ruột non đã rơi xuống ngang hoặc dưới màng trinh 1 chút (< 1 cm). Các triệu chứng có thể bao gồm cảm giác phình ra hoặc “có thứ gì đó rơi xuống” tại âm đạo, cảm giác tức, nặng ở vùng chậu nhiều hơn và khó khăn trong việc đi tiểu và đi đại tiện.
Ở giai đoạn này, tập luyện cơ sàn chậu gần như không có tác dụng trong việc điều trị sa sinh dục mà cần can thiệp bằng việc đặt lưới nâng qua đường âm đạo hoặc phẫu thuật nội soi ổ bụng để treo các cơ quan bị sa vào các cấu trúc vững chắc của khung chậu (như dây chằng chậu lược, mỏm nhô xương cùng).
Sa sinh dục độ 4 là mức độ nghiêm trọng nhất, tình trạng này được xác định khi tạng sa ra hoàn toàn ra khỏi âm đạo, đây là tình trạng gây khó chịu nhất, mỗi khi đi tiểu hay đại tiện phải dùng tay đẩy khối sa lên và ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của người bệnh, người bệnh không dám đi lại hay vận động nhiều, khối sa có thể bị viêm loét hoặc gây các rối loạn nghiêm trọng như thận ứ nước, nhiễm khuẩn đường tiết niệu tái diễn, tiểu khó hoặc són tiểu, táo bón, són phân,… cần được can thiệp điều trị ngay.
Sa sinh dục không được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng khác nhau, bao gồm: tiểu không tự chủ, nhiễm trùng đường tiết niệu, táo bón, đại tiện không tự chủ và đau trong khi giao hợp, viêm loét khối sa,… có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Phương pháp chẩn đoán sa sinh dục chủ yếu là khám lâm sàng để xác định xem người bệnh có hay bị đau bụng hoặc các vấn đề về bàng quang hay rối loạn đi tiểu, đi đại tiện không, việc thăm khám âm đạo là cần thiết. Để có thể chẩn đoán các trường hợp nhẹ hơn, bác sĩ khám các cơ quan bụng bằng tay cả từ bên ngoài (bụng) và từ bên trong âm đạo. Kết hợp giữa nhìn và thăm khám âm đạo, thăm khám hậu môn có thể phát hiện vị trí của các cơ quan ở khung chậu. Khám lâm sàng có thể kiểm tra mức độ sa của các cơ quan vùng chậu.
Bác sĩ có thể tiến hành kiểm tra mức độ són tiểu khi người bệnh ho hoặc hắt hơi, đánh giá sức co của cơ sàn chậu bằng cách bảo người bệnh nhíu hậu môn hoặc co thắt cơ âm đạo trong khi ngón tay của bác sĩ đặt trong âm đạo và cảm giác được sức cơ mạnh hay yếu qua cảm giác cơ âm đạo bóp chặt ngón tay của bác sĩ hay không.
Trong một số trường hợp, người bệnh không có bất kỳ triệu chứng nào và được phát hiện tình cờ bệnh trong 1 lần khám âm đạo, sàn chậu định kỳ, thì trước khi cần can thiệp, bác sĩ có thể cho chụp cộng hưởng từ (MRI) động lực học sàn chậu để đánh giá vị trí của bàng quang, tử cung, trực tràng, thành âm đạo ở các thì nghỉ, thót và rặn bụng.
Các xét nghiệm khác cần làm như siêu âm bụng, tổng phân tích nước tiểu, cấy nước tiểu và định danh vi khuẩn nếu nhiễm trùng tiểu tái phát nhiều lần, cần được điều trị triệt để. Soi bàng quang và thực hiện các phép đo niệu động học có thể được thực hiện nếu cần thiết.
Việc điều trị sa sinh dục chủ yếu dựa trên mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng hơn là các cơ quan đã sa xuống bao nhiêu. Điều trị phù hợp nhất sẽ phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Các lựa chọn điều trị hiện có cho sa sinh dục bao gồm:
Xem thêm: Điều trị sa sinh dục bằng robot có ưu và nhược điểm gì?
Chế độ ăn uống nhiều chất xơ tránh táo bón, dinh dưỡng đủ chất, tập thể dục thể thao thường xuyên, duy trì cân nặng hợp lý, tránh béo phì. Không hút thuốc lá, ăn nhiều thực phẩm có chứa mầm đậu nành để bổ xung nội tiết (đối với phụ nữ mãn kinh). Thường xuyên thực hiện các bài tập sàn chậu (bài tập kegel) có thể tăng cường sức mạnh của cân cơ sàn chậu. Tập luyện các bài tập này sau sinh đặc biệt có thể giúp sàn chậu phục hồi nhanh hơn.
Các bác sĩ cũng khuyên người bệnh nên tránh nâng hoặc mang vác các vật nặng, để tránh áp lực lên sàn chậu. Nếu bị ho mạn tính hoặc táo bón thường xuyên, béo phì thì việc điều trị tình trạng này có thể giúp giảm các vấn đề về sàn chậu. Thăm khám sàn chậu 2 lần/năm để phát hiện sớm những bất thường và có kế hoạch điều trị kịp thời.
Bài viết liên quan có thể bạn quan tâm:
Sa sinh dục ít ảnh hưởng đến khả năng sinh sản nếu không có biến chứng. Tuy nhiên, bệnh có thể cản trở việc thụ thai, giảm tỷ lệ thụ thai thành công do đau hoặc khó chịu trong quá trình giao hợp. N
ếu có viêm nhiễm ở bàng quang, âm đạo, lan đến tử cung, buồng trứng, vòi trứng dẫn đến khó thụ thai, thai ngoài tử cung. Đôi khi, sa sinh dục có liên quan đến các điều kiện sức khỏe khác, có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản như: hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) hoặc lạc nội mạc tử cung,…
Đơn vị Niệu nữ, khoa Tiết niệu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh TP.HCM và Đơn vị Tiết niệu, Trung tâm Khám chữa bệnh Tâm Anh Quận 7. Tại đây có đội ngũ bác sĩ là những chuyên gia hàng đầu về điều trị các vấn đề về sức khỏe đường tiết niệu ở nữ, trong đó có sa sinh dục.
Hiện, Đơn vị Niệu nữ, khoa Tiết niệu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh TP.HCM và Đơn vị Tiết niệu, Trung tâm Khám chữa bệnh Tâm Anh Quận 7 đã tiếp nhận và điều trị thành công nhiều trường hợp mắc sa sinh dục nặng, kèm bệnh nền phức tạp bằng phẫu thuật qua đường âm đạo và qua nội soi ổ bụng, khôi phục về vị trí giải phẫu tự nhiên của các cơ quan trong vùng chậu, giúp cải thiện triệu chứng của sa sinh dục.
Đừng để các triệu chứng của sa sinh dục ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và các sinh hoạt hàng ngày của bạn. Nếu có các triệu chứng như khối bất thường phình ra từ âm đạo hoặc cảm giác khó chịu vùng chậu, tiểu không tự chủ, đau khi giao hợp,… hãy đến gặp bác sĩ ở Tâm Anh ngay để được thăm khám và có liệu trình điều trị phù hợp nhất.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Hy vọng với những thông tin bài viết vừa chia sẻ đã giúp bạn hiểu thêm bệnh cũng như các triệu chứng, cách chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa sa sinh dục. Thăm khám định kỳ có thể giúp phụ nữ tầm soát và phát hiện sớm nhiều vấn đề về sức khỏe.