Dị tật thai nhi là một trong những vấn đề đáng quan tâm không chỉ của riêng thai phụ mà còn là của cả toàn xã hội. Theo những số liệu thống kê của Bộ Y tế, mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 1.5 triệu trẻ em được sinh ra đời, trong đó có khoảng 41.000 trẻ bị mắc các dị tật.
Vậy cụ thể dị tật thai nhi là gì? Nguyên nhân nào dẫn đến các dị tật này? Những dị tật thường gặp nhất ở trẻ là những loại nào? Tất cả những vấn đề trên sẽ được TS.BS Nguyễn Hoàng Long – Phó Giám đốc Trung tâm Y học bào thai, BVĐK Tâm Anh TP.HCM chia sẻ với độc giả thông qua bài viết bên dưới.
Dị tật thai nhi là những biến đổi bất thường về mặt cấu trúc của một cơ quan hoặc chức năng, kể cả rối loạn chuyển hoá, có biểu hiện ngay từ khi mới sinh ra hoặc ở các giai đoạn muộn hơn nhưng đã có nguyên nhân ngay từ trước khi sinh. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng khuyết tật bẩm sinh ở trẻ, những bệnh lý về mãn tính và là nguy cơ làm tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Theo các chuyên gia, dị tật ở thai nhi thường được chia thành 2 loại là dị tật cấu trúc và dị tật chức năng. Cụ thể:
Dị tật cấu trúc là những dị tật ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc của các bộ phận trên cơ thể đang phát triển của thai nhi, làm sai lệch cấu trúc (thiếu, dư, tổn thương,…) của những bộ phận như tim, phổi, thận, tay chân hoặc những đặc điểm trên khuôn mặt. Điển hình nhất của dị tật cấu trúc là các khuyết tật về tim, thiếu ngón chân, tật sứt môi, hở hàm ếch, tật nứt đốt sống,…
Dị tật chức năng là những dị tật gây nên những biến đổi về chức năng, ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của một hoặc một số bộ phận, cơ quan trên cơ thể của thai nhi, chẳng hạn như não, hệ thần kinh, quá trình nhận thức của các giác quan. Những dị tật chức năng điển hình có thể kể đến như động kinh, chậm phát triển, mù lòa, loạn dưỡng cơ, hội chứng Down,…
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, dị tật thai nhi không chỉ có tác động riêng lẻ đến cấu trúc hoặc chức năng của các bộ phận trên cơ thể thai nhi mà còn có thể ảnh hưởng đến cả cấu trúc và chức năng của em bé.=
Theo các chuyên gia, các yếu tố nguy cơ gây ra dị tật thường được chia thành 2 nhóm: (1)
Ngoài ra, những bất thường đa yếu tố là tình trạng do sự tương tác của nhiều gen và nhiều yếu tố môi trường, như các dị tật sứt môi chẻ vòm miệng, bệnh tim bẩm sinh, dị tật ống thần kinh.
Yếu tố di truyền là một trong những nguyên nhân tiêu biểu gây nên những khuyết tật ở thai nhi. Yếu tố di truyền bao gồm 2 yếu tố chính là gen và nhiễm sắc thể (NST). Những bất thường, đột biến của 2 loại này sẽ gây nên những dị tật nhất định ở trẻ.
Gen được xem là một đơn vị vật chất di truyền nhỏ bé nhất, có chức năng cấu tạo và hình thành nên một cá thể chứa đựng thông tin di truyền, các đặc điểm nổi bật từ gen của bố và gen của mẹ. Rối loạn đơn gen là những rối loạn có các kiểu di truyền khác nhau như rối loạn gen lặn trên NST thường, rối loạn gen trội trên NST thường hoặc trên NST giới tính X.
Nhiễm sắc thể là tập hợp của nhiều gen tạo thành. Sự biến đổi, đột biến của nhiễm sắc thể là những thay đổi lớn, thường liên quan đến số lượng hoặc cấu trúc của nhiễm sắc thể, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các cơ quan, bộ phận có liên quan trực tiếp đến sự thay đổi đó. Điển hình nhất là hội chứng Down (Trisomy 21), hội chứng Edwards (Trisomy 18), hội chứng Patau (Trisomy 13).
Tuổi tác của bố mẹ cũng ảnh hưởng đến sự hình hình và phát triển toàn diện của thai nhi. Theo một số nghiên cứu cho thấy, nam giới ở độ tuổi 40 và nữ giới ở độ tuổi từ 35 trở lên khi sinh con sẽ có nguy cơ cao bị các dị tật.
Nguyên nhân là do ở độ tuổi này, chất lượng của tinh trùng và trứng đều suy giảm, không khỏe mạnh và đạt chất lượng như ở độ tuổi dưới 30. Bên cạnh đó, sức khỏe của mẹ bầu trên 35 tuổi cũng gặp phải nhiều vấn đề nên khi mang thai rất dễ gây nên hiện tượng bất thường thai kỳ, xảy ra lỗi trong quá trình phân chia nhiễm sắc thể và những bất thường về cấu trúc của gen di truyền.
Chế độ dinh dưỡng là vấn đề quan trọng trong thai kỳ mà mẹ bầu cần lưu ý. Dinh dưỡng gần như là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển toàn diện của bào thai trong bụng mẹ. Vì thế, thai phụ cần đảm bảo cung cấp đầy đủ và đúng cách các dưỡng chất cần thiết như canxi, sắt, kẽm, đạm, vitamine, khoáng chất,… theo khuyến nghị của bác sĩ để cơ thể luôn khỏe mạnh và thai nhi tránh được một số dị tật nhất định.
Trong quá trình mang thai, thai phụ nên tránh sống ở những môi trường phức tạp, ồn ào, môi trường ô nhiễm, gần các nhà máy hóa chất, nhà máy xử lý các chất thải, hạn chế tiếp xúc với những chất độc hại như chất phóng xạ, hóa chất, khói thuốc lá,… để bảo vệ tốt sức khỏe của mình và thai nhi, tránh làm tăng các yếu tố nguy cơ gây nên dị tật bẩm sinh cho trẻ.
Khi mang thai nhất là trong khoảng 3 tháng đầu, một số mẹ bầu không may mắc phải một số bệnh truyền nhiễm như giang mai, herpes, rubella,… có thể gây nên những dị tật thai nhi. Bên cạnh đó, một số bệnh lý khác như lupus ban đỏ, đái tháo đường thai kỳ cũng là những nguyên nhân tiềm ẩn gây nên những nguy cơ cao gặp phải dị tật bẩm sinh ở trẻ. Vì thế, trước và trong quá trình mang thai, mẹ bầu cần lưu ý chăm sóc tốt sức khỏe của mình để phòng ngừa các biến chứng xấu ảnh hưởng đến thai nhi.
Bên cạnh tác dụng chính là hỗ trợ điều trị, giảm nhẹ những triệu chứng khó chịu khi bệnh nhân mắc phải các bệnh lý thì hầu hết các loại thuốc đều có những tác dụng phụ nhất định. Vì thế, trước khi sử dụng thuốc, đặc biệt là đối với mẹ bầu, cần xin chỉ định của bác sĩ, không tự ý dùng thuốc hoặc thay đổi liều lượng thuốc,… vì có thể gây ra những dị tật cho bào thai trong bụng.
Tia X là một dạng bức xạ điện từ có khả năng xuyên ra các vật rắn chất và có những tác hại nhất định nếu xuyên qua cơ thể con người không đúng cách. Trong y học, tia X thường được sử dụng để ghi lại hình ảnh của xương và một số bộ phận khác của cơ thể thông qua việc chụp X-quang. (2)
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tia X-quang có những tác động không tốt đến sự hình thành và phát triển của bào thai. Trong quá trình thai phụ chụp X-quang, thai nhi rất có khả năng tiếp xúc với tia X. Điều này có thể làm cho thai nhi chậm phát triển, có thể bị dị tật hay dị dạng cơ thể.
Mức độ tác động, ảnh hưởng của tia X đối với sức khỏe của con người còn phụ thuộc vào các yếu tố như liều lượng, tần suất và thời gian tiếp xúc. Do đó, theo các bác sĩ Y học bào thai, nguy cơ thai nhi bị ảnh hưởng và bị dị tật bởi tia X sau 1 lần tiếp xúc là rất hiếm gặp nhưng thai phụ cần phòng ngừa và hạn chế chụp X-quang trong thai kỳ, đặc biệt là chụp ở trước 8 tuần khi thai nhi còn ở giai đoạn phôi.
Một số dị tật bẩm sinh thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ như:
Bệnh tim bẩm sinh là một trong những bệnh lý có tỷ lệ mắc phải cao nhất trong các loại bệnh bẩm sinh ở trẻ. Theo số liệu của Bộ Y tế, mỗi năm nước ta có khoảng 10.000 – 12.000 trẻ mắc phải bệnh lý này, chiếm 90% tổng số lượng các ca bệnh liên quan đến tim mạch ở trẻ.
Tim bẩm sinh là những dị tật liên quan đến cấu trúc của các bộ phận trên tim như cơ tim, van tim, buồng tim xuất hiện trong quá trình hình thành bào thai, tiếp tục tiến triển nặng hơn và tồn tại cho đến khi bé ra đời. Sự bất thường về cấu trúc của các cơ quan tim ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tuần hoàn máu và tạo lập nhịp đập, có thể gây ra những biến chứng xấu như suy tim, loạn nhịp tim, nhiễm trùng tim,… nguy hiểm nhất là gây tử vong cho bé.
Sứt môi và hở hàm ếch là những dị tật bẩm sinh ở trẻ xảy ra trong thời kỳ bào thai khi cấu trúc đôi môi và khuôn miệng của thai nhi không được hình thành đúng cách. Những dị tật này không chỉ gây ảnh hưởng về ngoại hình mà còn gây khó khăn cho trẻ trong quá trình bú, ăn uống, khó thở, có nguy cơ nhiễm trùng tai,…
Dị tật cơ xương khớp là tình trạng bất thường của các cơ xương khớp trong quá trình hình thành. Các cơ xương khớp này không được cấu tạo và phát triển theo nguyên lý bình thường mà có sự biến đổi theo nhiều dạng nhất định. Một số bất thường về cơ xương khớp thường gặp ở trẻ nhỏ như: Vẹo cổ bẩm sinh, vẹo cột sống, bàn chân bẹt, bàn chân khoèo bẩm sinh, tay chân bị dị dạng,…
Dị tật thai nhi này không chỉ gây ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện về ngoại hình của trẻ, làm chậm quá trình phát triển vận động mà còn ảnh hưởng về thể chất và cả trí tuệ của trẻ mắc bệnh.
Khuyết tật hậu môn là một loại dị tật bẩm sinh khó phát hiện khi siêu âm và khó tầm soát khi còn là bào thai nằm trong bụng mẹ. Dị tật này có nhiều thể khác nhau nhưng chủ yếu nhất là tình trạng không có hậu môn, hậu môn nằm sai vị trí, hẹp hậu môn, lỗ hậu môn bị che khuất bởi một lớp màng bao bọc, hậu môn và trực tràng không có sự kết nối với nhau,… thường xảy ra nhiều ở bé trai hơn bé gái.
Hiện tại, theo các chuyên gia, nguyên nhân gây nên dị tật này vẫn chưa được xác định rõ ràng và đây là dị tật nguy hiểm nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm, thậm chí gây tử vong cho trẻ nhỏ.
Nứt đốt sống là dị tật liên quan đến những khiếm khuyết của ống thần kinh. Dị tật này xảy ra là do sự phát triển bất thường của tủy sống (nơi liên kết hệ thống thần kinh của cơ thể thai nhi với não bộ) ở những tuần thai thứ 4, thứ 5 của thai kỳ. Dị tật này làm cho đốt sống không thể hoàn toàn khép lại mà có hiện tượng chẻ đôi, nứt ra, bị tách thành 2 nửa.
Dị tật này thường được chia thành 2 dạng là nứt đốt sống nang và nứt đốt sống ẩn. Tùy thuộc vào từng loại sẽ có cách điều trị khác nhau.
Dị tật ống thần kinh là những khiếm khuyết xảy ra ở não bộ, cột sống và tủy sống của thai nhi trong quá trình hình thành và phát triển của bào thai.
Hiện nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào cho biết chính xác nguyên nhân gây nên tình trạng này là gì nhưng theo các chuyên gia sự kết hợp giữa yếu tố di truyền, môi trường và dinh dưỡng là những yếu tố cơ bản có tác động đến sự hình thành các dị tật liên quan đến ống thần kinh. Khi mắc phải dị tật này, thai nhi thường chết non hoặc chết ngay khi vừa chào đời do chịu ảnh hưởng bởi nhiều biến chứng.
Hội chứng Down (Trisomy 21) là dị tật bẩm sinh xuất hiện phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Hội chứng này xảy ra do quá trình hình thành nhiễm sắc thể gặp vấn đề, gây nên tình trạng đột biến và dư thừa một nhiễm sắc thể số 21. Sự thay đổi bất thường của nhiễm sắc thể có tác động không nhỏ đến sức khỏe của thai nhi trong bụng mẹ và sức khỏe của trẻ nhỏ sau khi sinh ra đời như ảnh hưởng về thể chất, trí tuệ, tinh thần, ngoại hình,…
Hội chứng Edward (Trisomy 18) là tình trạng rối loạn di truyền xảy ra trong quá trình hình thành bào thai được biểu hiện bằng việc dư thừa 1 nhiễm sắc thể số 18. Đây là hội chứng xảy ra khá phổ biến ở thai nhi, chiếm 1/4000 – 1/8000 trường hợp, chỉ đứng thứ 3 sau 2 hội chứng Down và DiGeorge. Khi mắc phải dị tật thai nhi này, bé rất khó để sống sót, thường sẽ mất trong bụng mẹ hoặc mất ngay sau khi chào đời. Một số trường hợp may mắn có thể sống sót (chỉ chiếm khoảng 5 – 10%) thì sẽ không thể phát triển một cách bình thường.
Hội chứng Patau (Trisomy 13) là tình trạng bất thường trong quá trình phân chia và hình thành cấu trúc nhiễm sắc thể. Những trẻ mắc phải hội chứng Patau không chỉ bị biến dạng về ngoại hình như đầu nhỏ; trán nghiêng, méo mó; sứt môi, hở hàm ếch; dư ngón tay, chân;… mà còn chịu ảnh hưởng nghiêm trọng về sức khỏe, thường chết ngay trong bụng mẹ.
Chỉ khoảng 5-10% trẻ mắc hội chứng Edwards sống đến 1 tuổi. Phần lớn trẻ sinh ra với hội chứng này không sống qua tháng thứ 1. Nhiều trẻ sẽ không sống quá 6 tháng do các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến tim, phổi và các cơ quan khác.
Lỗ niệu đạo lệch thấp hoặc cao là tình trạng bất thường trong quá trình hình thành lỗ niệu đạo. Trong đó:
Lỗ niệu đạo lệch thấp (lỗ tiểu lệch thấp): Là hiện tượng lỗ tiểu được hình thành ở vị trí thấp hơn so với bình thường. Những trẻ bị dị tật lỗ niệu đạo lệch thấp thường rơi vào các trường hợp như lỗ tiểu ở thân dương vật; lỗ tiểu ở gốc dương vật bìu, bìu, tầng sinh môn; lỗ tiểu ở quy đầu, khấc quy đầu;… Dị tật này không chỉ làm cho niệu đạo phát triển kém, dương vật bị uốn cong mà còn gây nên tình trạng vô sinh nếu không kịp thời phát hiện và điều trị hiệu quả. Dị tật này chiếm khoảng 1/300 bé trai.
Lỗ niệu đạo lệch cao (lỗ tiểu lệch cao): Là tình trạng lỗ niệu đạo được mở ra ở mặt lưng dương vật, gần về phía mu thay vì phải ở ngay tại đỉnh quy đầu, ở mặt dưới của dương vật và bìu. Dị tật này thường bắt nguồn từ sự thiếu hụt testosterone hay những khiếm khuyết liên quan đến mạch máu ở vùng dương vật,… có thể gây khó khăn trong quá trình tiểu tiện, làm cho dương vật bị biến dạng và ảnh hưởng đến khả năng sinh sản sau này.
Dị tật ở bào thai có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào trong thai kỳ, nhưng phần lớn các dị tật bẩm sinh nặng thường xuất hiện nhiều trong khoảng 3 tháng đầu thai kỳ, khi các cơ quan, bộ phận của cơ thể đang trong quá trình được hình thành. Tuy nhiên, một số khuyết tật bẩm sinh có thể xảy ra ở 3 tháng cuối thai kỳ khi các mô và cơ quan đang ở những bước hoàn thiện cuối cùng và có sự biệt hóa với nhau.
Dị tật thai nhi có thể được chẩn đoán, sàng lọc trước sinh, tầm soát từ rất sớm và quá trình này được thực hiện xuyên suốt thai kỳ thông qua một số phương pháp, bao gồm:
NIPT là xét nghiệm tiền sinh không xâm lấn tiên tiến nhất hiện nay giúp sàng lọc hiệu quả một số dị tật ở thai nhi với độ chính xác cao như hội chứng Down (Trisomy 21) khoảng 99%, hội chứng Edward (Trisomy 18) khoảng 97%, hội chứng Patau (Trisomy 13) khoảng 87%, một số rối loạn ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể giới tính (NST X và NST Y). Đây là phương pháp sàng lọc quan trọng, rất an toàn và không gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của thai nhi, thường được thực hiện từ tuần thai thứ 10.
Trong thai kỳ, em bé không ngừng phát triển và lớn dần lên trong bụng mẹ. Trong quá trình phát triển này, một phần nhỏ ADN của thai nhi sẽ di chuyển và tồn tại lại trong máu của mẹ, được gọi là ADN tự do (cfDNA). Xét nghiệm NIPT được thực hiện dựa trên cơ chế sử dụng máu mẹ bầu có chứa cfDNA để phân tích, kiểm tra và xác định những bất thường có nguy cơ cao gây nên dị tật cho trẻ.
Combined Test là một phương pháp sàng lọc quan trọng được thực hiện từ tuần 11 đến tuần 14 của thai kỳ để phát hiện sớm nguy cơ dị tật bẩm sinh, đặc biệt là hội chứng Down (trisomy 21), hội chứng Edwards (trisomy 18), hội chứng Patau (trisomy 13), (3)… Phương pháp này kết hợp hai yếu tố chính:
Kết quả từ xét nghiệm máu và siêu âm sẽ được kết hợp với yếu tố tuổi của mẹ, trọng lượng cơ thể và tiền sử bệnh lý để tính toán nguy cơ. Nếu kết quả Combined Test chỉ ra nguy cơ cao, bác sĩ sẽ khuyến cáo thai phụ thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán chính xác hơn như chọc ối hoặc lấy mẫu gai nhau (CVS). Phương pháp này an toàn, không gây rủi ro cho mẹ và thai nhi nhưng chỉ có giá trị sàng lọc, không thể đưa ra chẩn đoán chắc chắn.
Triple test cũng có khả năng sàng lọc, tầm soát, phát hiện được 60 – 70% các trường hợp dị tật bẩm sinh liên quan đến sự bất thường về cấu trúc và số lượng nhiễm sắc thể, tiêu biểu như tam nhiễm NST 21 (hội chứng Down), tam nhiễm NST 18 (hội chứng Edward), tam nhiễm NST 13 (hội chứng Patau).
Đây là xét nghiệm không xâm lấn được thực hiện bằng cách sử dụng máu của mẹ bầu để phân tích 3 nhóm chất: AFP (Alpha-fetoprotein), uE3 (Unconjugated estriol), Β-hCG (Beta Human Chorionic Gonadotropin). Dựa vào định lượng nồng độ tăng, giảm của 3 nhóm chất này, bác sĩ có thể chẩn đoán được khả năng mắc dị tật của thai nhi. Triple test chỉ làm ở quý II và nên làm khi thai phụ bỏ lỡ Combined test ở quý I.
Chọc ối và sinh thiết gai nhau là hai phương pháp chẩn đoán xâm lấn được sử dụng để xác định chính xác các dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Cụ thể:
Siêu âm thai là phương pháp chẩn đoán hình ảnh dựa vào sóng âm tần số cao để tạo lập nên hình ảnh của em bé bên trong bụng mẹ. Siêu âm là phương pháp an toàn, không ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và bé thường được dùng để theo dõi các chỉ số cơ thể và sự phát triển của bào thai trong suốt thai kỳ ở các mốc quan trọng như 5-8 tuần, 8-10 tuần, 11-13 tuần 6 ngày, 16-18 tuần, 20-24 tuần, 24-28 tuần, 28-32 tuần, 32-36 tuần và 36-40 tuần.
Bên cạnh đó, siêu âm thai, đặc biệt là siêu âm hình thái học thai nhi còn được xem là một phần của xét nghiệm trước sinh thường quy có khả năng kiểm tra dị tật của bào thai, được thực hiện trong khoảng tuần 18 đến tuần thứ 23 của thai kỳ. Siêu âm hình thái học thai nhi có thể xem xét sự phát triển và phát hiện những dị tật liên quan đến:
MRI thai (chụp cộng hưởng từ thai nhi) là phương pháp chẩn đoán hình ảnh kỹ thuật cao sử dụng các xung sóng tần số vô tuyến để tạo lập và mô phỏng hình ảnh em bé nằm trong bụng mẹ. Đây là phương pháp cận lâm sàng có độ chính xác rất cao, được dùng để tầm soát những dị tật ở thai nhi, đặc biệt là những dị tật liên quan đến vùng não và các bộ phận có cấu trúc phức tạp. Ngoài ra, MRI thai còn được dùng chẩn đoán những ca bệnh khó và đưa ra tiên lượng cho thai kỳ. (4)
Chụp cộng hưởng từ thai nhi thường được thực hiện từ sau 22 tuần, chủ yếu là từ 28 – 32 tuần được bác sĩ chỉ định thực hiện đối với những trường hợp thai kỳ có nguy cơ cao, phát hiện bất thường thông qua các phương pháp khác nhưng chưa có đủ căn cứ để xác định chính xác dị tật cũng như phương pháp điều trị,…
MRI là phương pháp chẩn đoán hình ảnh an toàn, có thể phát hiện được các dị tật bẩm sinh khó thấy ở thai nhi
Để có một thai kỳ khỏe mạnh, phòng ngừa được các dị tật bào thai, bố mẹ có thể áp dụng các cách sau:
Trước khi có ý định mang thai, bố mẹ nên thực hiện một số kiểm tra, xét nghiệm về di truyền học, khám tiền sản nhằm chẩn đoán các dị tật di truyền tiềm ẩn (nếu có) và những bệnh lý khác mà bố mẹ mắc phải có thể ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của thai nhi sau này. Từ đó, bác sĩ sẽ tư vấn bố mẹ các giải pháp an toàn và hiệu quả khi mang thai để thai nhi không bị di truyền các dị tật này.
Bên cạnh đó, mẹ cần điều dưỡng cơ thể thật tốt bằng cách bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng, đặc biệt là Acid folic (có khả năng làm giảm tỷ lệ đột biến gen) và tiêm phòng đầy đủ các loại vaccine phòng bệnh như vaccine cúm, viêm gan B, sởi, quai bị, rubella,… trước khi mang thai. Điều này sẽ giúp cho cơ thể của mẹ được khỏe mạnh, thai nhi ít có khả năng mắc dị tật bẩm sinh do yếu tố di truyền.
Khi mang thai, đặc biệt là trong những tháng đầu của thai kỳ, mẹ cần lưu ý chăm sóc tốt sức khỏe của mình, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, nghỉ ngơi và vận động phù hợp; tránh tiếp xúc với môi trường bị ô nhiễm, các chất hóa học, chất phóng xạ và các chất độc hại khác. Đồng thời mẹ nên tránh xa và không nên sử dụng các chất kích thích như rượu bia, thuốc lá, caffeine,… để bảo vệ sức khỏe cho thai nhi.
Ngoài ra, mẹ nên khám thai định kỳ theo lời dặn của bác sĩ tại những mốc quan trọng của thai kỳ; thực hiện một số xét nghiệm, kiểm tra sức khỏe như Double test, Triple test, MRI thai, chọc ối, siêu âm hình thái học thai nhi, NIPT,… để có thể quan sát được sự phát triển từng ngày của bào thai; tầm soát, sàng lọc những dị tật bẩm sinh cho bé đồng thời kiểm soát tốt được tình trạng sức khỏe của bản thân để có một thai kỳ khỏe mạnh và an toàn.
Nếu bố mẹ có nhu cầu đặt lịch khám và tư vấn cùng các chuyên gia Y học bào thai về các dịch vụ tầm soát dị tật bẩm sinh, xét nghiệm di truyền học, kiểm tra sức khỏe tiền sản,… tại Trung tâm Y học bào thai, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Quý khách xin vui lòng liên hệ đến:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Dị tật thai nhi là những biến đổi bất thường trong quá trình hình thành cấu trúc và chức năng của các bộ phận trong cơ thể của bào thai gây ảnh hưởng rất lớn đến tính mạng, sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ sau này. Vì thế việc sàng lọc, tầm soát hiệu quả những dị tật này là điều kiện tiên quyết giúp thai nhi khỏe mạnh và an toàn lớn lên.