Phần lớn người bệnh ung thư được chẩn đoán mắc bệnh khi đã quá tuổi sinh sản. Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ cho biết độ tuổi trung bình của người bệnh khi được chẩn đoán là 66. Tuy nhiên, có gần 150.000 người/năm (10%) vẫn còn trong độ tuổi sinh sản tại thời điểm được chẩn đoán (1). Vậy người chồng bị ung thư có nên sinh con không? Bài viết sau của bác sĩ CKI Nguyễn Chí Thanh, khoa Ung bướu Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM sẽ giải đáp chi tiết.
Chồng bị ung thư không nên sinh con. Nam giới đang điều trị ung thư hoặc vừa kết thúc quá trình điều trị thường được bác sĩ khuyến cáo nên trì hoãn việc có con trong một khoảng thời gian nhất định (thường từ 2-5 năm). Trì hoãn trong bao lâu phụ thuộc vào loại ung thư và phác đồ điều trị đã sử dụng. Các phương pháp điều trị như hóa trị, xạ trị hoặc điều trị nhắm trúng đích có thể gây tổn thương tinh trùng tạm thời hoặc vĩnh viễn, ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản và nguy cơ dị tật thai nhi.
Nam giới bị ung thư có vô sinh không phụ thuộc các yếu tố như:
Ảnh hưởng của các phương pháp điều trị đến khả năng sinh sản của người bệnh, bao gồm:
Một số phương pháp phẫu thuật như cắt bỏ tinh hoàn, tuyến tiền liệt, hoặc bàng quang có thể gây mất khả năng sản xuất tinh trùng hoặc rối loạn xuất tinh ở nam giới. Ngoài ra, việc nạo hạch bạch huyết vùng chậu có thể làm tổn thương dây thần kinh giao cảm, liên quan đến xuất tinh, gây xuất tinh ngược dòng hoặc tinh dịch không có tinh trùng.
Hóa trị có thể gây suy giảm số lượng tinh trùng, rối loạn khả năng di chuyển hay hình dạng, thậm chí không có tinh trùng tạm thời hoặc vĩnh viễn. Một số loại thuốc hóa trị, đặc biệt là nhóm alkylating agents, có độc tính cao lên tế bào sản xuất tinh trùng. Từ đó có thể gây vô sinh ở người bệnh ung thư.
Tùy vào liều lượng và vị trí, xạ trị vào hoặc gần tinh hoàn có thể ảnh hưởng quá trình sản xuất tinh trùng. Xạ trị vào não hay tuyến yên có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở nam giới do ảnh hưởng đến quá trình sản xuất hormone sinh dục cũng như số lượng tinh trùng.
Tìm hiểu thêm: Hóa trị, xạ trị có ảnh hưởng đến sinh sản của nam và nữ?
Phương pháp này thường được áp dụng trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt hoặc một số bệnh K khác phụ thuộc vào hormon. Liệu pháp nội tiết có thể làm suy giảm nồng độ testosterone, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất tinh trùng, nhưng phần lớn có thể hồi phục nếu ngưng điều trị.
Những ảnh hưởng trên là yếu tố cần cân nhắc khi các cặp đôi đứng trước quyết định chồng bị ung thư có nên sinh con trong hoặc sau điều trị hay không.
Việc bảo tồn khả năng sinh sản nên được xem xét càng sớm càng tốt, bắt đầu ngay sau khi người bệnh được chẩn đoán ung thư và trước khi bắt đầu điều trị. Một số biện pháp bảo tồn khả năng sinh sản phổ biến như:
Trữ tinh trùng là quy trình thu thập, xử lý và đông lạnh tinh trùng để bảo quản lâu dài, phục vụ cho việc sinh sản trong tương lai. Tinh trùng được đặt trong môi trường bảo quản chuyên biệt, sau đó làm lạnh sâu bằng nitơ lỏng ở nhiệt độ -196°C. Ở điều kiện này, tinh trùng có thể sống sót và thụ tinh (sau đó) trong nhiều năm. Khi cần sử dụng, tinh trùng sẽ được rã đông, đưa trở lại môi trường sinh lý bình thường và có thể dùng để thụ tinh với trứng thông qua các phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Tinh trùng và trứng sẽ được kết hợp để tạo thành phôi, sau đó trữ phôi trong môi trường bảo quản chuyên biệt. Phôi sẽ được bơm vào tử cung khi có nguyện vọng sinh con sau này.
Phương pháp này được sử dụng để bảo vệ khả năng sinh sản của nam giới bằng cách ngăn tinh hoàn bị tổn thương trong quá trình xạ trị. Một tấm chắn bảo vệ được đặt trên bìu (túi chứa tinh hoàn) trong quá trình xạ trị vùng chậu.
Vợ mang thai khi chồng bị ung thư hoặc vừa điều trị bệnh có ảnh hưởng đến thai nhi không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại và giai đoạn ung thư, phương pháp điều trị, thời điểm thụ thai (trong hoặc sau điều trị), cũng như chất lượng tinh trùng sau điều trị. Điều quan trọng là vợ chồng nên trao đổi với bác sĩ về những rủi ro có thể xảy ra khi mang thai và sinh con. Bác sĩ sẽ hướng dẫn các biện pháp sàng lọc dị tật thai nhi cũng như có kế hoạch điều trị phù hợp.
Một số lưu ý trước khi quyết định sinh con như:
Người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ về khả năng sinh sản trước khi bắt đầu điều trị. Bác sĩ sẽ cho biết phương pháp điều trị dự kiến sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản như thế nào. Việc hiểu về các phương pháp có thể giúp người bệnh chủ động bảo tồn khả năng sinh sản trước và trong quá trình điều trị.
Vợ chồng nên chia sẻ cảm xúc của bản thân về việc có con và mong muốn của “đối tác” như thế nào. Từ đó cùng nhau đưa ra quyết định về việc có con khi chồng mắc hoặc đang điều trị bệnh.
Vợ chồng nên tìm hiểu về những lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản trước khi bắt đầu điều trị. Khi đánh giá các phương án, bác sĩ sẽ cân nhắc rủi ro và tỷ lệ thành công của từng phương pháp. Hiện các phương pháp phổ biến nhất là trữ tinh trùng và trữ phôi.
Các lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản thường có chi phí cao và có thể không được bảo hiểm chi trả. Một số lựa chọn cũng cần thực hiện trong thời gian dài và có thể người bệnh không đủ thời gian để trì hoãn điều trị. Việc người chồng bị ung thư có nên sinh con hay không, không chỉ liên quan đến khả năng sinh sản mà còn gắn liền với yếu tố di truyền, sức khỏe thai nhi và sự an toàn trong tương lai.
Có thể sinh con an toàn sau khi chồng điều trị ung thư từ 2 đến 5 năm, khoảng thời gian này còn tùy thuộc vào loại ung thư và phác đồ điều trị đã sử dụng. Các phương pháp điều trị như hóa trị, xạ trị hoặc điều trị nhắm trúng đích có thể gây tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn đến tế bào tinh trùng, ảnh hưởng đến chất lượng di truyền và nguy cơ bất thường cho thai nhi.
Một số loại bệnh K có yếu tố di truyền do đột biến gen (di truyền từ cha mẹ sang con). Các loại bệnh K có yếu tố gia đình bao gồm: K vú (BRCA1, BRCA2), buồng trứng, tuyến tiền liệt, dạ dày, tụy, nội mạc tử cung… Nếu người bố mang đột biến gen, nguy cơ truyền sang con là khoảng 50% cho mỗi gen trội (2). Tuy nhiên, việc mang gen đột biến không đồng nghĩa 100% sẽ mắc ung thư, mà chỉ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nguy cơ này còn phụ thuộc vào một số yếu tố như: môi trường, lối sống, chế độ ăn uống…
Lưu trữ tinh trùng trước điều trị là biện pháp bảo tồn sinh sản hiệu quả nhất cho nam giới mắc ung thư. Phương pháp này đảm bảo chất lượng tinh trùng dùng cho việc thụ tinh sau khi kết thúc điều trị.
Tại BVĐK Tâm Anh TP.HCM, người bệnh ung thư trong độ tuổi sinh sản mong muốn sinh con trong tương lai sẽ được tư vấn và hỗ trợ toàn diện từ đội ngũ chuyên gia của khoa Ung bướu và Trung tâm Hỗ trợ sinh sản (IVF).
Ngay từ khi mới chẩn đoán ung thư, người bệnh sẽ được đánh giá toàn diện các nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản do các phương pháp điều trị (hóa trị, xạ trị hay phẫu thuật). Từ đó, người bệnh sẽ được tư vấn các phương án bảo tồn khả năng sinh sản phù hợp, bao gồm:
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bác sĩ chuyên khoa Ung bướu – Sinh sản – Di truyền – Tâm lý giúp người bệnh K vẫn có cơ hội làm cha mẹ an toàn, chủ động, khoa học và cá thể hóa theo từng trường hợp cụ thể.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Bài viết đã giải đáp chi tiết câu hỏi “chồng bị ung thư có nên sinh con?”. Việc quyết định sinh con khi người chồng đang hoặc từng điều trị ung thư là quyết định đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa mong muốn, tình trạng sức khỏe, điều kiện kinh tế… Nếu quá trình sinh con được lên kế hoạch cẩn trọng, lựa chọn thời điểm phù hợp sau điều trị, và được theo dõi chặt chẽ bởi bác sĩ chuyên khoa, trẻ sinh ra vẫn có thể hoàn toàn khỏe mạnh.