Bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) hay suy thận giai đoạn cuối là giai đoạn cuối của bệnh thận mạn tính. Tại thời điểm này, thận không thể loại bỏ chất thải ra khỏi máu và điều hòa chất lỏng, khoáng chất trong cơ thể, nên cần phải chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận. Nếu lựa chọn chạy thận thì chạy thận giai đoạn cuối sống được bao lâu? Yếu tố nào ảnh hưởng đến tiên lượng sống của người bệnh ESRD? Bài viết này, bác sĩ CKII Ngô Đồng Dũng, khoa Nội thận – Lọc máu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh sẽ tư vấn giải đáp thắc mắc.

Chạy thận giai đoạn cuối là chạy thận để duy trì sự sống cho người bệnh suy thận giai đoạn 5 (suy thận giai đoạn cuối). Khi mức lọc cầu thận xuống thấp và thận gần như không thể thực hiện chức năng lọc máu, cân bằng chất lỏng và chất điện giải. Có hơn 800.000 người ở Việt Nam sống chung với bệnh thận giai đoạn cuối. Sự phát triển của bệnh thận mạn tính (CKD) và sự tiến triển của nó thành bệnh thận giai đoạn cuối là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sớm. (1)
Hướng dẫn nền tảng Cải thiện Kết quả Toàn cầu về Bệnh Thận (KDIGO) xác định CKD bằng cách sử dụng các dấu hiệu tổn thương thận, cụ thể là các dấu hiệu xác định protein niệu và mức lọc cầu thận. Theo định nghĩa, sự hiện diện của cả 2 yếu tố (tốc độ lọc cầu thận (GFR) dưới 60 mL/phút và albumin lớn hơn 30mg/gram creatinine) cùng với những bất thường về cấu trúc hoặc chức năng thận trong hơn 3 tháng là dấu hiệu của bệnh thận mạn tính.
Bệnh thận giai đoạn cuối được định nghĩa là GFR dưới 15 mL/phút. Theo hướng dẫn thực hành lâm sàng KDIGO 2012, CKD được phân thành 5 giai đoạn dựa trên mức độ lọc cầu thận
Chạy thận giai đoạn cuối sống có thể kéo dài sự sống từ 5 – 10 năm. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp chạy thận nhân tạo điều trị bệnh thận giai đoạn cuối có thể sống đến 20 năm, thậm chí 30 năm, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như chức năng thận còn lại, độ tuổi khi bắt đầu chạy thận, bệnh nền đi kèm,…
Cho nên, để kết luận bất kỳ trường hợp nào chạy thận giai đoạn cuối sống được bao lâu? bác sĩ Nội thận – Lọc máu cần cân nhắc rất nhiều yếu tố liên quan. Tuy nhiên, kết luận cũng chỉ là tiên lượng sống cho từng trường hợp, không thể chắc chắn 100% vì cần quản lý rất nhiều yếu tố nguy cơ trong quá trình điều trị. (2)

Vai trò của chạy thận đối với bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối là thay thế chức năng thận, nhằm duy trì sự sống. Các vai trò cụ thể gồm:
Chạy thận là phương pháp điều trị kéo dài sự sống có thể được sử dụng cho đến khi có thận hiến tặng phù hợp để tiến hành cấy ghép. Có nhiều loại chạy thận khác nhau, bao gồm chạy thận nhân tạo và lọc màng bụng.
Xem thêm: Nếu không chạy thận sống được bao lâu?
Chức năng thận suy giảm đến mức 10% – 15% thì người bệnh được kết luận mắc bệnh thận giai đoạn cuối. Chức năng thận còn lại (RRF) là khả năng thận loại bỏ độc tố và nước ở những người mắc bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD). RRF có thể tác động tích cực đến tuổi thọ của những người mắc ESRD.
Những người mắc suy thận có chức năng thận còn lại càng cao tiên lượng sống càng tốt. Vì chức năng thận còn lại dù ít nhưng vẫn hoạt động được, giúp lọc chất lỏng, cân bằng điện giải và điều hòa huyết áp, điều này giúp kéo dài thời gian sống của người bệnh vì giảm bớt tần suất lọc máu, giảm bớt nguy cơ biến chứng.
Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, chức năng thận còn lại (RRF) ở người mắc bệnh thận giai đoạn cuối được điều trị bằng phương pháp lọc màng bụng (PD) hoặc chạy thận nhân tạo (HD) được định nghĩa là 1 chỉ số tiên lượng mạnh mẽ về thời gian sống.
Khả năng điều trị bảo tồn RRF có liên quan đến khả năng sống sót tốt hơn, tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn và chất lượng cuộc sống cao hơn ở những người mắc ESRD trên PD hoặc HD. Vì vậy, bảo tồn RRF được coi là 1 trong những mục tiêu chính trong việc điều trị cho người bệnh mắc ESRD.

Ở những người mắc bệnh thận giai đoạn cuối (ESKD) được điều trị bằng chạy thận nhân tạo, nam giới có tiên lượng sống tốt hơn nữ giới. Để hiểu tại sao giới tính có thể ảnh hưởng đến khả năng sống sót, chúng ta cần hiểu các yếu tố “gây nhiễu” có thể ảnh hưởng đến thực hành lọc máu. Mô hình hiện tại là chỉ định chạy thận nhân tạo để đạt được độ thanh thải urê của quả lọc mục tiêu được điều chỉnh theo tổng lượng nước trong cơ thể (Kt/Vurea).
Độ lọc cầu thận ước tính được tính từ creatinine huyết thanh thường được sử dụng để xác định thời điểm bắt đầu lọc máu; vì tỷ lệ tạo ra creatinine thấp hơn ở phụ nữ, điều này có thể dẫn đến sai lệch về thời gian thực hiện, làm cho người bệnh là nam giới bắt đầu lọc máu sớm hơn nữ giới, làm tăng thời gian sống khi tiên lượng vì được điều trị kịp thời.
Khi liều lọc máu được điều chỉnh theo tổng lượng nước trong cơ thể (Kt/Vurea), phụ nữ sẽ nhận được thời gian lọc máu ngắn hơn. Việc lọc máu mở rộng theo diện tích bề mặt cơ thể có thể phù hợp hơn vì việc tạo ra urê (chất thay thế cho việc sản xuất độc tố niệu) phụ thuộc vào mức tiêu hao năng lượng khi nghỉ ngơi (tức là chuyển hóa tế bào) phản ánh kích thước của các cơ quan nội tạng.
Mức tiêu hao năng lượng khi nghỉ ngơi lớn hơn tương ứng ở những người có vóc dáng nhỏ hơn. Cơ thể phụ nữ thường nhỏ hơn nam giới, do đó các cơ quan nội tạng có kích thước nhỏ hơn. Tuy nhiên, khi so sánh các cá thể, kích thước cơ quan nội tạng được điều chỉnh tốt nhất theo diện tích bề mặt cơ thể chứ không phải lượng nước trong cơ thể.
Thời gian lọc máu ngắn hơn cũng dẫn đến độ thanh thải phân tử thấp hơn, tăng tốc độ loại bỏ chất lỏng và nguy cơ hạ huyết áp trong quá trình lọc máu, có khả năng dẫn đến mất chức năng thận còn lại sớm hơn. Các nghiên cứu quan sát báo cáo rằng mối liên hệ giữa khả năng sống sót và quả lọc máu Kt/Vurea được cải thiện sau khi điều chỉnh diện tích bề mặt cơ thể hoặc mức tiêu hao năng lượng.
Những nghiên cứu này cũng chứng minh rằng chỉ định chạy thận nhân tạo thông thường dựa trên mục tiêu Kt/Vurea hiện tại dẫn đến việc điều trị cho phụ nữ ít hơn. Những hậu quả phức tạp này của việc kích thước cơ thể của phụ nữ nhìn chung nhỏ hơn so với nam giới có thể là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tử vong tương đối cao hơn ở phụ nữ.
Tỷ lệ mắc bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) đã tăng đáng kể ở những người lớn tuổi trong vài năm qua. Ở thời điểm hiện tại, tỷ lệ mắc bệnh ESRD cao chủ yếu ở những người từ 65 – 74 tuổi và tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở những người từ 75 tuổi trở lên. Ở người trưởng thành trẻ tuổi mắc ESRD, việc lọc máu có thể giúp tăng tuổi thọ, giảm triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Các kết quả liên quan đến lọc máu có nhiều thay đổi hơn ở người lớn tuổi, nhưng nhìn chung, ở các trường hợp mắc bệnh thận giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo có tiên lượng sống thấp hơn người trẻ. Cụ thể tỷ lệ tử vong sớm ở người bệnh chạy thận nhân tạo tăng theo tuổi:
Thời điểm bắt đầu chạy thận cũng ảnh hưởng đến thời gian sống của người mắc ESRD. Tương tự như chức năng thận còn lại, lọc máu càng sớm càng giúp bảo tồn chức năng thận còn lại và kéo dài sự sống cho người bệnh.
Bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong thường xuyên ở người bệnh chạy thận nhân tạo, với tỷ lệ được báo cáo là cao hơn 10 – 20 lần so với người có chức năng thận bình thường. Lý do cho sự khác biệt này là do tần suất động mạch vành tăng lên ở những người bệnh ESRD.
Hệ thống Dữ liệu Thận Hoa Kỳ (USRDS) báo cáo rằng khoảng 50% số ca tử vong là do bệnh tim mạch ở những người chạy thận nhân tạo, hội chứng mạch vành cấp tính (ACS) được báo cáo là 1 biến chứng trong gặp phải 2,9% người bệnh chạy thận mỗi năm.
Giải đáp nhanh: Chạy thận có phải phương pháp cuối cùng không?

Việc lựa chọn phương thức chạy thận là chạy thận nhân tạo (HD) hoặc lọc màng bụng hay thẩm phân phúc mạc (PD) có thể ảnh hưởng đến thời gian sống của người bệnh. PD có thể tốt hơn cho người trẻ tuổi (<60 tuổi), trong khi HD có thể tốt hơn cho các trường hợp lớn tuổi (>70 tuổi). Các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khả năng sống sót bao gồm bệnh thận do tiểu đường, bệnh tim mạch và tiền sử ung thư. Cần cân nhắc kỹ các yếu tố nguy cơ giúp bác sĩ có lựa chọn điều trị phù hợp.
Không có cách nào chắc chắn có thể giúp kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân chạy thận giai đoạn cuối, dưới đây là một số lời khuyên từ bác sĩ Nội thận – Lọc máu, người bệnh có thể tham khảo giúp giảm nhẹ các triệu chứng khó chịu, thấy khỏe hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống khi chạy thận:
Xem thêm: Chế độ ăn cho người chạy thận nhân tạo giúp bữa ăn đủ dinh dưỡng

Như vậy, người bệnh chạy thận giai đoạn cuối sống được 5 – 10 năm thậm chí lâu hơn đến 30 năm và lâu hơn nữa. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiên sống khi chạy thận nhân tạo ở người mắc bệnh thận mạn giai đoạn cuối (ESRD) gồm: chức năng thận còn lại, giới tính, độ tuổi khi bắt đầu điều trị bằng lọc máu, có hay không bệnh nền tim mạch và phương pháp điều trị chạy thận cụ thể.
Thực hiện chạy thận tại các cơ sở y tế đủ điều kiện an toàn, có đội ngũ bác sĩ giỏi và trang thiết bị hiện đại có thể giúp quản lý các rủi ro, biến chứng và kéo dài thời gian sống cho người bệnh.
Điều trị chạy thận giai đoạn cuối tại khoa Nội thận – Lọc máu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh TP.HCM và Đơn vị Nội thận – Lọc máu, Trung tâm Khám chữa bệnh Tâm Anh Quận 7 với trang thiết bị hiện đại, máy chạy thận HDF Online thế hệ mới, nước R.O vô khuẩn giúp lọc sạch máu và hạn chế các rủi ro, biến chứng có liên quan đến nhiễm trùng trong chạy thận nhân tạo.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Hy vọng với những thông tin bài viết vừa chia sẻ đã giúp giải đáp thắc mắc về của bạn về việc chạy thận giai đoạn cuối sống được bao lâu? Yếu tố nào ảnh hưởng? Điều trị bệnh thận giai đoạn cuối là quá trình lâu dài, người bệnh cần được chăm sóc sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần để có tiên lượng về thời gian sống tốt hơn mỗi ngày.