Nếu không được điều trị kịp thời, cường giáp có thể ảnh hưởng đến sức khỏe mẹ bầu và thai nhi, làm tăng nguy cơ xuất hiện các biến chứng sản khoa như tiền sản giật, sảy thai, sinh non, thai nhẹ cân, chậm phát triển… Vậy sản phụ bị cường giáp nên sinh thường hay sinh mổ? Dưới đây là các thông tin được ThS.BS Võ Hoàng Gia Nghi, khoa Nội tiết – Đái tháo đường, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM chia sẻ.
Sản phụ bị bệnh đều có thể sinh thường hoặc sinh mổ. Tuy nhiên, để lựa chọn phương pháp sinh cho sản phụ cường giáp phụ thuộc vào nhiều yếu tố sản khoa và nội tiết, nhất là sức khỏe của mẹ và thai nhi và sẽ được bác sĩ Sản khoa cân nhắc kỹ lưỡng.
Sản phụ bị bệnh có thể lựa chọn sinh thường khi đã được điều trị ổn định chức năng tuyến giáp, nồng độ hormone giáp trong giới hạn an toàn, không có các triệu chứng như suy tim, nhịp tim nhanh kéo dài, không có các biến chứng nội tiết nặng… Ngoài ra, cần cân nhắc tình trạng sức khỏe thai nhi: thai nhi phát triển tốt, không có dấu hiệu cường tuyến giáp bẩm sinh thì sản phụ vẫn có thể sinh thường như sản phụ khỏe mạnh.
Bác sĩ có thể cân nhắc chỉ định sinh mổ nếu sản phụ và thai nhi có các dấu hiệu:
Ngoài ra, nếu sản phụ có ngôi thai bất thường, khung chậu hẹp, nhau tiền đạo… thì cần cân nhắc sinh mổ.
Sau khi sinh, bệnh vẫn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của sản phụ và trẻ sơ sinh, do đó phụ nữ sau sinh vẫn cần được theo dõi chức năng tuyến giáp định kỳ.
Nếu người mẹ bị bệnh chưa được kiểm soát, nhất là do Basedow thì các kháng thể tự miễn kháng receptor của TSH (TRAb) có thể tồn tại trong cơ thể trẻ sơ sinh (do được truyền từ mẹ sang con qua nhau thai), gây tình trạng cường tuyến giáp sơ sinh. Trẻ có thể có các triệu chứng như: chậm tăng cân, tim đập nhanh, nôn trớ… Tình trạng này cần được can thiệp sớm để đảm bảo sức khỏe cho bé. (1)
Trong một số trường hợp, bệnh có thể diễn tiến nặng hơn sau sinh. Lúc này cơ thể người mẹ đã suy nhược nhiều, nếu không được kiểm soát bệnh, có thể gặp các triệu chứng như: tim đập nhanh, hồi hộp, sụt cân bất thường, run tay, đổ mồ hôi nhiều… cộng thêm những thay đổi nội tiết và mệt mỏi, thiếu ngủ do chăm sóc con nhỏ, người mẹ có thể khó phục hồi sức khỏe. (2)
Ngoài ra, tình trạng cường giáp nặng sau sinh có thể khiến mẹ mất sữa sớm, mệt mỏi, không đủ sức chăm con và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ sơ sinh. Trong một số trường hợp người mẹ trước khi sinh không bị bệnh nhưng sau sinh có thể có triệu chứng của bệnh này. Đây là tình trạng cường tuyến giáp sau sinh.
Phụ nữ sau sinh nên tái khám với bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường, nhất là với người có tiền sử rối loạn tuyến giáp trước khi sinh hoặc có triệu chứng nghi ngờ rối loạn nội tiết.
Phụ nữ bị cường giáp vẫn có thể cho con bú, kể cả khi đang điều trị bằng thuốc kháng giáp tổng hợp. Thuốc kháng giáp tổng hợp có thể ảnh hưởng đến thai nhi, nhưng bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường sẽ chỉ định liều phù hợp để kiểm soát nguy cơ ở mức tối thiểu, do đó cần tuyệt đối tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ. Có 2 loại thuốc kháng giáp phổ biến là Propylthiouracil (PTU) và Methimazole:
Bệnh thường do nguyên nhân phổ biến là bệnh tự miễn Basedow, do đó rất khó để phòng ngừa triệt để, kể cả với người mang thai và không mang thai. Tuy nhiên, có thể giảm nguy cơ mắc bệnh bằng các cách:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Bị cường giáp nên sinh thường hay sinh mổ là thắc mắc của nhiều người bệnh, nhất là phụ nữ đang mang thai hoặc có kế hoạch mang thai. Người bệnh nên điều trị bệnh ổn định trước khi mang thai ít nhất 6 tháng để hạn chế các nguy cơ biến chứng thai kỳ, đảm bảo sức khỏe cho mẹ bầu và thai nhi.