Tử cung là cơ quan quan trọng thực hiện chức năng sinh sản ở nữ giới, nơi nuôi dưỡng và cung cấp chất dinh dưỡng cho thai nhi trong suốt thai kỳ cho đến khi bé chào đời. Tuy nhiên, tử cung cũng là bộ phận dễ bị tổn thương. Bệnh tử cung thường nguy hiểm, gây ra biến chứng nghiêm trọng. Hãy cùng tìm hiểu các bệnh về tử cung qua thông tin bài viết bên dưới.
Bệnh tử cung là những bệnh liên quan mật thiết đến tử cung, có ảnh hưởng hay tác động trực tiếp đến sức khỏe và chức năng sinh sản của phụ nữ. Các bệnh về tử cung rất nguy hiểm và có thể gặp ở phụ nữ trong mọi độ tuổi. (1)
Sa tử cung (hay còn gọi là sa sinh dục, sa dạ con, sa thành âm đạo) thường xảy ra ở phụ nữ mang thai nhiều lần hoặc mang thai con to, hoặc quá trình sinh có thể làm tổn thương đến các cơ quan vùng sàn chậu như giãn nhão hoặc đứt gãy tấm cân cơ ở vùng đó…
Các cơ và dây chằng của sàn chậu căng ra quá mức, dẫn đến không thể nâng đỡ tử cung, khiến các thành âm đạo ở phía trước bị đẩy ra phía ngoài làm cho thành âm đạo có thể bị sa vào trong âm đạo hoặc lộ ra bên ngoài âm đạo.
Sa tử cung được chia thành các cấp độ khác nhau, được mô tả theo từng giai đoạn, biểu thị mức độ sa xuống của tử cung, gồm:
Bệnh lý sa tử cung chủ yếu gặp phải ở phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, phụ nữ đã qua sinh nở nhiều lần và đã mãn kinh. Bên cạnh đó, những người thường xuyên lao động nặng nhọc, lao động chân tay hay gia đình (bà, mẹ, chị, em ruột) có tiền sử bệnh này,… cũng có nguy cơ cao mắc phải.
Tử cung là cơ quan sinh sản quan trọng của phụ nữ, nằm ở vùng xương chậu. Tử cung có hình dạng giống quả lê, được cấu tạo gồm 3 phần: Đáy tử cung, thân tử cung, cổ tử cung. Những trường hợp tử cung có hình dạng và cấu tạo khác được gọi là dị dạng tử cung.
Dị dạng tử cung bẩm sinh là trường hợp bệnh nhân từ khi sinh ra đã có tử cung bất thường do đa gen hoặc đa yếu tố. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng sinh sản, dễ gây sảy thai, sinh non, thai chết lưu, vô sinh,…
Theo Hiệp hội Y học Sinh sản Mỹ, có 5 loại dị dạng tử cung bẩm sinh, gồm:
Viêm vùng chậu (PID) là tình trạng viêm nhiễm ở cơ quan sinh dục nữ như tử cung, cổ tử cung, buồng trứng, ống dẫn trứng, âm đạo,… gây ra bởi các bệnh lây truyền qua đường tình dục, do các vi khuẩn từ âm đạo đi lên và lây nhiễm cho các cơ quan sinh dục khác.
Bệnh lý viêm vùng chậu nếu không kịp thời phát hiện và có phương án điều trị hợp lý sẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh như: Mang thai ngoài tử cung, vô sinh, đau vùng chậu mạn tính, áp xe buồng trứng.
Viêm vùng chậu là loại bệnh khá phổ biến và có tỷ lệ mắc cao nhất ở nữ giới có độ tuổi dưới 25. Bên cạnh đó, một số trường hợp có nguy cơ mắc cao như: Quan hệ tình dục với nhiều người, có nguy cơ lây bệnh từ bạn tình có mối quan hệ tình dục phức tạp, đã từng mắc phải bệnh lây truyền qua đường tình dục (lậu và chlamydia), từng bị viêm vùng chậu, nạo phá thai nhiều lần….
Polyp tử cung còn được gọi là polyp nội mạc tử cung, là những khối u mềm, có cấu trúc nhẵn, hình tròn hoặc hình bầu dục, kích thước từ vài milimet đến vài centimet, có màu nâu vàng, thường phát triển ở bất cứ vị trí nào của lòng tử cung hay nội mạc tử cung. Các khối polyp bám vào nội mạc tử cung bằng cuống mỏng hoặc một đế rộng. Khối polyp này xuất hiện do sự phát triển quá mức của lớp tuyến và mô đệm nội mạc tử cung.
Polyp tử cung có khả năng phát triển cao nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và tiền mãn kinh (từ 30 – 50 tuổi). Thời kỳ hậu mãn kinh vẫn có nguy cơ gặp phải nhưng sẽ hiếm gặp ở phụ nữ dưới 20 tuổi.
Ngoài ra, một số trường hợp có nguy cơ xuất hiện polyp tử cung, bao gồm: Những phụ nữ dư cân hoặc béo phì, tăng huyết áp, phụ nữ sử dụng liệu pháp thay thế hormone sau thời kỳ mãn kinh, người bệnh sử dụng thuốc Tamoxifen, người có tình trạng viêm mạn tính nội mạc tử cung,…
Bệnh lý này phổ biến và đa số lành tính nếu phát hiện và điều trị kịp thời. Tùy vào đối tượng và tình hình diễn biến của bệnh mà bác sĩ sẽ chẩn đoán và đưa ra pháp đồ điều trị phù hợp, gồm: Theo dõi (đối với bệnh ở mức độ nhẹ, không gây ra triệu chứng), sử dụng các loại thuốc để cải thiện các triệu chứng của polyp tử cung và phẫu thuật cắt bỏ tử cung bằng nội soi.
U xơ tử cung hay còn được gọi là u cơ tử cung hay nhân xơ tử cung… là bệnh lý lành tính của tử cung. U xơ tử cung là những khối u được cấu tạo từ các tế bào cơ trơn và mô liên kết dạng sợi, sau đó chúng phát triển trong tử cung.
Tùy vào kích thước, hình dáng và vị trí của u xơ mà chúng được chia thành 3 loại chủ yếu, gồm:
U xơ tử cung là bệnh lý có thể gặp phải ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, độ tuổi dễ mắc phải u xơ cao nhất từ 30 – 45 tuổi. Ở độ tuổi này, hàm lượng estrogen trong cơ thể thay đổi liên tục và tăng cao nên dễ gây ra tình trạng u xơ tử cung.
Lạc nội mạc tử cung là tình trạng các lớp niêm mạc tử cung phát triển ở ngoài buồng tử cung và một số vị trí ở trong vùng chậu, khoang bụng. Những lớp niêm mạc này sẽ bong ra trong kỳ kinh nguyệt và được tái tạo lại sau khi chu kỳ kết thúc. Bệnh lý về tử cung này xảy ra khi các lớp niêm mạc không đi ra ngoài theo máu kinh mà ở lại trong tử cung hay đi ngược lại lên buồng trứng, gây viêm nhiễm, chảy máu và đau bụng.
Dựa trên vị trí khởi phát của bệnh, lạc nội mạc tử cung được chia thành 3 loại:
Lạc nội mạc tử cung là bệnh phụ khoa phổ biến, thường gặp ở phụ nữ từ 30 – 40 tuổi, nguy cơ cao ở những người có kinh nguyệt kéo dài (hơn 7 ngày), có chu kỳ kinh nguyệt ngắn (dưới 27 ngày), có tiền sử gia đình (mẹ, cô, chị, em gái) bị lạc nội mạc cổ tử cung, chưa bao giờ có con hay đang bị tình trạng dòng chảy của máu kinh ra khỏi cơ thể không bình thường trong kỳ kinh nguyệt.
Tăng sản nội mạc tử cung còn được gọi là tăng sinh nội mạc tử cung. Đây là tình trạng tăng sản đột ngột và bất thường về kích thước, hình dạng, mật độ của nội mạc tử cung làm cho tỷ lệ tuyến, mô đệm tăng lên so với tuyến nội mạc tử cung bình thường.
Trên cơ sở thành phần cấu trúc tuyến, mô đệm (đơn giản hay phức tạp) và sự hiện diện của tế bào to dị dạng hay không (điển hình hay không điển hình), tăng sản nội mạc tử cung được chia thành 4 nhóm:
Theo thống kê, bệnh lý tăng sản nội mạc tử cung xuất hiện ở các đối tượng có tình trạng thừa cân béo phì, chu kỳ kinh nguyệt diễn ra không đều, trong độ tuổi dậy thì, người sử dụng thuốc bản chất hormone nữ.
Sẹo tử cung là vết sẹo để lại trong quá trình mổ lấy thai, là tình trạng nội mạc tử cung mất liên tục một phần hay toàn bộ lớp cơ thành trước eo tử cung, tạo nên túi dịch tại vị trí thành trước đoạn dưới tử cung, eo tử cung hay đoạn trên của ống cổ tử cung. (2)
Sẹo tử cung là bệnh lý tử cung thường gặp phải, ảnh hưởng đến cuộc sống của người bệnh với các triệu chứng khởi phát như: Rong kinh, rong huyết, ứ dịch buồng tử cung, đau bụng vùng hạ vị, đau vùng chậu mạn, đau khi quan hệ, vô sinh thứ phát,…
Khi phát hiện sẹo tử cung, cần căn cứ vào tình hình thực tế, vị trí, độ phức tạp của bệnh lý mà bác sĩ sẽ có chẩn đoán và đề xuất phương pháp điều trị. Hiện nay có 3 phương pháp điều trị sẹo tử cung gồm: mổ nội soi khuyết sẹo mổ lấy thai, nội soi ổ bụng cắt bỏ sẹo mổ cũ và điều trị phẫu thuật nội soi.
Đây là bệnh lý lành tính, không nguy hiểm nhưng nếu không điều trị và phát hiện kịp thời sẽ là khởi nguồn cho nhiều bệnh phụ khoa khác, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Viêm lộ tuyến cổ tử cung là hiện tượng các tế bào tuyến nằm trong ống tử cung phát triển và xâm lấn ra bên ngoài của cổ tử cung gây tổn thương cổ tử cung. Bệnh thường xuất hiện ở phụ nữ đã quan hệ tình dục, đang trong thời kỳ sinh sản hay vừa mới sinh xong. Ngoài ra, trong một vài trường hợp bệnh xuất hiện là do bẩm sinh.
Căn cứ vào tình trạng bệnh cũng như mức độ tổn thương mà viêm lộ tuyến cổ tử cung được chia thành 3 cấp độ:
Ung thư cổ tử cung hay ung thư tử cung là căn bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh, có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại bệnh.
Ung thư xuất hiện do các tế bào trong cơ thể mất kiểm soát khi phát triển và phân chia. Các tế bào này bị biến đổi về mặt di truyền (đột biến) trong nhân tế bào dẫn đến không phát triển theo quy luật bình thường. Chúng sẽ hợp thành khối u phá hủy và chiếm dần các mô lành trong cơ thể. Sau đó, từ từ lan ra các cơ quan lân cận và toàn bộ cơ thể người bệnh.
Dựa theo hệ thống phân loại TNM của Ủy ban Ung thư Hoa Kỳ (AJCC), ung thư được chia thành 4 giai đoạn dựa vào 3 yếu tố:
Các bệnh về tử cung thường được biểu hiện ở nhiều tình trạng và có những triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào từng bệnh lý và mức độ phát triển của bệnh. Các triệu chứng này xuất hiện là do cổ tử cung bị viêm nhiễm, thay đổi nội tiết tố trong cơ thể nữ giới,…
Một số triệu chứng phổ biến thường gặp khi bệnh nhân gặp phải các bệnh lý tử cung như: Đau ở vùng tử cung, chảy máu tử cung bất thường hay dịch tiết ra bất thường ở vùng âm đạo, đau khi giao hợp, kinh nguyệt không đều thường kéo dài và gây đau bụng dữ dội, đau vùng chậu, đau lưng dưới,…
Để chẩn đoán chính xác các bệnh về tử cung, bác sĩ sẽ lấy thông tin chi tiết về bệnh lý của bệnh nhân cũng như tiền sử bệnh lý của gia đình. Kiểm tra tổng quát sức khỏe để xác định các dấu hiệu bất thường của cơ thể từ đó xác định nguyên nhân gây ra bệnh và đề ra phương pháp điều trị. (3)
Bên cạnh đó, tùy thuộc vào từng loại bệnh và mức độ ảnh hưởng của bệnh lý đối với cơ thể người bệnh, các bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân thực hiện một số xét nghiệm thí nghiệm và hình ảnh như: Xét nghiệm PAP (sàng lọc ung thư cổ tử cung), siêu âm tử cung phần phụ, chụp X-Quang, chụp CT, chụp cộng hưởng từ (MRI),…
Bệnh lý về tử cung cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời để tránh các biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra. Các biến chứng của bệnh lý tử cung thường gặp là:
Nữ giới nên kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các loại bệnh lý liên quan đến tử cung và có phương án điều trị hợp lý nhằm giải quyết triệt để bệnh tình đồng thời giảm thiểu các biến chứng của bệnh.
Bên cạnh đó, chị em nên đến gặp bác sĩ ngay nếu gặp phải tình trạng mất máu đột ngột hay có những biểu hiện của các bệnh lý liên quan đến tử cung như: Mang thai ngoài tử cung, viêm vùng chậu có áp xe hoặc túi chứa đầy chất lỏng, các biến chứng của bệnh u xơ, có hiện tượng chảy máu ở tử cung,…
Hầu hết các bệnh về tử cung không gây đau khi quan hệ, trừ một số loại bệnh như: U xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, bệnh viêm vùng chậu và mang thai ngoài tử cung. Các bệnh lý này gây đau khi quan hệ là do:
Nếu bạn có nhu cầu đặt lịch khám và tư vấn tại Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, xin vui lòng liên hệ đến:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Tóm lại, các bệnh tử cung đều nguy hiểm và phổ biến ở phụ nữ. Vì thế, cần thăm khám và kiểm tra định kỳ nhằm đảm bảo sức khỏe, phát hiện kịp thời các nguy cơ tiềm ẩn của bệnh để có phương pháp điều trị hợp lý, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và hạn chế tình trạng tái phát của bệnh.