Những bệnh này liên quan chặt chẽ đến rối loạn chức năng của các cơ quan nội tiết trong cơ thể như tiểu đường, bệnh về tuyến giáp,…
Thạc sĩ bác sĩ Trần Nguyễn Quỳnh Trâm, khoa Nội tiết, BVĐK Tâm Anh TP.HCM cho biết: Hệ thống nội tiết là một tập hợp các tuyến và cơ quan điều hành các quá trình của cơ thể bao gồm: Vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp và tuyến cận giáp, tuyến ức, tuyến thượng thận, tuyến tụy, buồng trứng, tinh hoàn.
Tuyến nội tiết đóng vai trò quan trọng, tiết ra các hormone vốn có nhiệm vụ truyền đi các tín hiệu đến các tuyến khác, các tế bào, để duy trì công năng điều hòa quá trình chuyển hóa trong cơ thể như điều hòa nhiệt độ, điều hòa đường huyết, cân bằng cơ thể đối diện stress,…
Hàm lượng hormone ở mức quá cao hay quá thấp, hoặc nếu cơ thể không phản ứng với hormone đúng cách thì người đó có thể rơi vào tình trạng rối loạn nội tiết. Tình trạng này có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm, đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
Vậy bệnh nội tiết gồm những bệnh nào? Bệnh nội tiết được chia thành nhiều nhóm bệnh khác nhau như: Bệnh tuyến yên và vùng dưới đồi (u tuyến yên, bệnh to đầu chi, dậy thì sớm, dậy thì muộn, suy tuyến yên, bệnh đái tháo nhạt); bệnh tuyến giáp (cường giáp, suy giáp, viêm giáp, bướu giáp, ung thư tuyến giáp,…); bệnh tuyến cận giáp (rối loạn canxi, phospho máu), bệnh tuyến thượng thận (suy thượng thận, hội chứng cushing, cường chức năng tuyến thượng thận,…); bệnh tuyến sinh dục (suy sinh dục, dậy thì sớm, dậy thì muộn, mãn kinh, rối loạn, suy buồng trứng sớm, buồng trứng đa nang); bệnh đái tháo đường, bệnh béo phì. Dưới đây là một số bệnh nội tiết thường gặp:
Hơn 55% bệnh nhân đái tháo đường tại Việt Nam có biến chứng, trong đó 34% biến chứng về tim mạch; 39,5% có biến chứng về mắt và thần kinh và 24% biến chứng về thận.
Đặc trưng của bệnh tiểu đường là lượng đường trong máu luôn cao hơn mức bình thường do cơ thể bị thiếu hụt hoặc đề kháng với insulin, gây tình trạng rối loạn chuyển hóa đường trong máu. Đây cũng là nguyên nhân cản trở cơ thể chuyển hóa các chất bột đường thành năng lượng, gây ra hiện tượng đường tích tụ tăng dần trong máu.
Lâu ngày, sự tích tụ này khiến lượng đường trong máu thường xuyên ở mức cao, từ đó, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và các bệnh lý khác, gây tổn thương các bộ phận như mắt, thận,… thậm chí tử vong. Đặc biệt, biến chứng tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người mắc bệnh tiểu đường.
Bệnh bướu giáp (còn gọi là bướu cổ/ bướu tuyến giáp) có thể được phân loại theo một số cách khác nhau, bao gồm cả cách bệnh phát triển và mức độ hormone tuyến giáp có bất thường hay không.
Phân loại bướu cổ dựa trên cách bướu phát triển:
Phân loại bướu cổ dựa trên nồng độ hormone tuyến giáp:
Tóm lại, bệnh bướu giáp là một trong những dạng rối loạn tuyến giáp phổ biến nhất, do tuyến giáp phì đại bất thường. Bệnh bướu cổ thường không gây đau nhưng những bướu lớn có thể sẽ gây ho, khó thở, nuốt nghẹn, khàn tiếng,…
Điều trị bướu cổ phụ thuộc vào mức độ lớn của tuyến giáp, các triệu chứng và nguyên nhân gây ra nó. Theo đó, điều trị bướu cổ sẽ bao gồm:
Cường giáp xảy ra khi tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone. Tình trạng dư thừa này có thể do một số nguyên nhân, bao gồm cả viêm tuyến giáp hoặc bệnh Graves (bệnh bướu độc lan tỏa).
Khi tình trạng cường giáp xảy ra có thể gây ra một loạt các triệu chứng, bao gồm: Nhịp tim nhanh hoặc không đều; khó ngủ; khó chịu và lo lắng; mệt mỏi; nóng bức; đi tiêu thường xuyên/tiêu chảy; gầy sút cân, phình giáp (cổ to).
Nếu không được điều trị, bệnh Graves có thể gây nhiễm độc giáp nghiêm trọng. Có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng nhiễm độc giáp đe dọa tính mạng (cơn bão giáp). Nhiễm độc giáp nặng kéo dài dẫn đến sụt cân nghiêm trọng kèm theo dị hóa xương và cơ. Biến chứng tim và biến chứng tâm thần có thể gây ra bệnh tật đáng kể. Bệnh Graves cũng liên quan đến bệnh nhãn khoa, bệnh da và bệnh bạch cầu.
Bão giáp là một trạng thái nhiễm độc giáp phóng đại, thường xảy ra ở những bệnh nhân bị nhiễm độc giáp không được phát hiện hoặc điều trị không đầy đủ hay một sự kiện kết tủa chồng chất như phẫu thuật tuyến giáp, phẫu thuật không giáp, nhiễm trùng hoặc chấn thương. Khi cơn bão giáp được mô tả lần đầu, tỷ lệ tử vong cấp tính là gần 100%. Nhưng đến nay, với liệu pháp tích cực và nhận biết sớm hội chứng, tỷ lệ tử vong chỉ ở mức 20%.
Có 3 phương pháp điều trị cường giáp bao gồm: Điều trị nội khoa bằng thuốc, liệu pháp điều trị phóng xạ bằng cách uống iod có gắn chất phóng xạ hoặc điều trị ngoại khoa bằng cách phẫu thuật tuyến giáp.
Trái ngược với cường giáp là tình trạng suy giáp. Bệnh xảy ra khi tuyến giáp không sản xuất đủ lượng hormone cho cơ thể. Đây là rối loạn tuyến giáp phổ biến nhất, có thể khiến các quá trình trong cơ thể bị chậm lại.
Các triệu chứng bệnh suy giáp bao gồm: Mệt mỏi, sợ lạnh, da khô, nhịp tim chậm, chuột rút, táo bón, tăng cân,…
Phương pháp điều trị thường là bổ sung hormone tuyến giáp nhằm kiểm soát các triệu chứng. Tuy nhiên nếu không được điều trị sớm sẽ gây ảnh hưởng tim mạch, vô sinh.
Mỗi quả thận có một tuyến thượng thận, là một phần của hệ nội tiết, sản xuất các hormone quan trọng cho cơ thể như aldosterone, cortisol từ vỏ não, adrenalin từ tủy. Hầu hết khối u ở tuyến thượng thận lành tính. Nhưng ở vài trường hợp, khối u này tiết ra hormone mức độ cao có thể gây ra các biến chứng. Việc điều trị bướu tuyến thận có thể dùng thuốc hoặc phải phẫu thuật.
Hội chứng Cushing xảy ra khi cơ thể dư thừa lượng hormone cortisol. Cortisol giúp cơ thể phản ứng với căng thẳng, điều chỉnh quá trình trao đổi chất và duy trì huyết áp.
Tình trạng dư thừa cortisol ở những người mắc hội chứng Cushing có thể gây ra các triệu chứng bao gồm: Tăng cân, chân tay teo nhỏ, mặt tròn bất thường, hình thành cục mỡ giữa vai (gù trâu), lông mọc nhiều, yếu cơ, tầm nhìn mờ, giảm khả năng sinh sản và ham muốn tình dục, mệt mỏi, các vết rạn màu tím trên da và da dễ bị bầm tím.
Các biến chứng nặng nề hơn bao gồm: Loãng xương; tăng nguy cơ gãy xương bất thường (đặc biệt là gãy xương sườn và xương bàn chân); tăng huyết áp; đái tháo đường type 2; nhiễm trùng thường xuyên.
Điều trị Hội chứng Cushing hiệu quả cần xác định nguyên nhân gây bệnh, bao gồm: Hội chứng cushing (u thượng thận), bệnh cushing hay hội chứng cushing do thuốc.
Bệnh to đầu chi xảy ra khi cơ thể tạo ra quá nhiều hormone tăng trưởng, nguyên nhân gây ra sự phát triển bất thường của xương, các cơ quan và các mô.
Đau đầu (đau nhiều ở vùng trán và thái dương) là biểu hiện thường gặp nhất. Ngoài ra, bệnh cũng có thể gây ra tình trạng da và xương ở đầu, mặt, tay chân phát triển to bất thường so với tỷ lệ cơ thể. Các biểu hiện khác bao gồm thay đổi xương (hàm dưới và trán nhô ra…); da dày, nhiều nếp nhăn trên mặt; tăng tiết mồ hôi và cơ thể có mùi; giọng nói trầm hơn.
Bệnh nguy hiểm ở chỗ, người Việt quan niệm người sở hữu mũi to, trán to,… sẽ có tướng làm quan đã vô tình trì hoãn thời gian điều trị bệnh. Quá trình điều trị bệnh diễn ra chậm trễ khiến người bệnh đối diện với những nguy hiểm liên quan đến tim, gan, phổi,… thậm chí đe dọa đến tính mạng.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Với tất cả các biến chứng nguy hiểm của các bệnh liên quan đến nội tiết trên, bác sĩ Quỳnh Trâm khuyến cáo: Các bệnh liên quan đến nội tiết có thể khó xác định do có nhiều triệu chứng âm thầm và biểu hiện giống với các bệnh lý khác. Do đó, khi thấy cơ thể xuất hiện các triệu chứng bất thường nghi ngờ liên quan đến tình trạng rối loạn nội tiết thì cần đi khám bệnh nội tiết sớm. Đặc biệt, chúng ta nên duy trì việc khám sức khỏe định kỳ và thực hiện các xét nghiệm cần thiết để phòng bệnh ghé thăm và đề phòng các biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.