Virus Herpes simplex(HSV) là một loại virus thích da và thần kinh, thường gây ra tình trạng nhiễm trùng tái phát ảnh hưởng đến da, miệng, môi, mắt và bộ phận sinh dục… Bệnh có thể gây ra các biến chứng nhiễm trùng nặng như viêm não, viêm màng não, Herpes sơ sinh…
Hiện thế giới có đến nửa tỷ người đang sống chung với bệnh Herpes sinh dục và vài tỷ người nhiễm Herpes miệng. Vậy virus Herpes simplex gây bệnh gì? Nguyên nhân lây nhiễm, triệu chứng, phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị bệnh do virus Herpes thế nào cho hiệu quả?
Virus Herpes simplex là gì?
Virus Herpes simplex thuộc họ virus Herpes. Virus Herpes (thường gặp gây bệnh ở người gồm: Herpes simplex virus (HSV) gây bệnh mụn rộp; Herpes zoster còn có tên khác là Varicella Zoster Virus (VZV) gây bệnh zona, thủy đậu) xâm nhập trực tiếp và gây ra các bệnh ngoài da. (1)
Virus herpes simplex gồm 2 loại:
Herpes loại 1 (viết tắt HSV-1 hoặc herpes miệng), thường gây lở loét, bỏng rộp xung quanh miệng, môi.
Herpes loại 2 (viết tắt HSV-2 hoặc herpes sinh dục) gây vết loét xung quanh bộ phận sinh dục hay trực tràng.
Trong một vài trường hợp hiếm gặp, tình trạng lở loét cũng xảy ra ở vị trí thắt lưng, cổ và mặt của người bệnh.
Bệnh Herpes lây nhiễm thông qua việc tiếp xúc tại vùng da của người bệnh có chứa virus gây bệnh. Khi virus bắt đầu xâm nhập vào cơ thể, người bệnh Herpes chưa khởi phát ngay các triệu chứng. Khi gặp điều kiện thuận lợi như hệ miễn dịch suy giảm hay gặp ánh sáng mặt trời, virus Herpes sẽ phát triển mạnh hơn và gây bệnh.
Trẻ em là đối tượng dễ mắc chứng Herpes miệng, bệnh cũng trở nên nghiêm trọng hơn so với người trưởng thành. Trong một số trường hợp hiếm gặp khác, virus Herpes còn gây ra bệnh viêm não Herpes ở trẻ sơ sinh.
Virus Herpes xâm nhập trực tiếp và gây ra các bệnh ngoài da
Chứng mụn rộp sinh dục gây ra bởi tác nhân chính là HSV-1 hoặc HSV-2. Nguyên nhân gây bệnh do virus xâm nhập vào cơ thể thông qua màng nhầy, thường được tìm thấy trong miệng, mũi, bộ phận sinh dục của người bệnh. Bệnh lây truyền từ người này sang người khác qua tiếp xúc dịch tiết âm đạo, tinh dịch và nước bọt.
Chứng Herpes bẩm sinh là hiện tượng trẻ sơ sinh bị nhiễm virus Herpes ngay khi còn trong bụng mẹ. Tình trạng này dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường như tổn thương não bộ, rối loạn chức năng ở gan và thận, khó thở hoặc rối loạn hô hấp, nhiễm trùng da toàn thân. Herpes bẩm sinh không thể điều trị dứt điểm, chỉ điều trị giảm các triệu chứng và ngăn biến chứng.
Viêm giác mạc thường xảy ra khi người bệnh rơi vào tình trạng virus Herpes tái phát. Hiện tượng nhiễm trùng sẽ xảy ra ở nhiều bộ phận cơ thể, sau đó theo dây thần kinh đi đến giác mạc. Các triệu chứng thường gặp như: ngứa mắt, ngứa giác mạc, sưng mí mắt, sưng giác mạc, đau, đỏ mắt, mờ mắt, chảy nước mắt, nhạy cảm với ánh sáng. Ở giác mạc có những biểu hiện bằng viêm chấm nông li ti, có thể thoáng qua rồi khỏi hoặc các chấm viêm có thể liên kết lại tạo thành loét giác mạc; thậm chí để lại sẹo giác mạc, giảm thị lực và có thể dẫn đến mù lòa.
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng là bệnh gây ra bởi virus Epstein-Barr (EBV), còn gọi là virus Herpes type 4. Đối tượng mắc bệnh chủ yếu là trẻ em và những người trẻ tuổi. Triệu chứng của bệnh bao gồm sưng hạch bạch huyết ở cổ, đau họng, sốt, mệt mỏi. Bệnh có thể dẫn đến một số biến chứng nghiêm trọng như vỡ lách, tắc nghẽn đường thở, hội chứng thần kinh.
Triệu chứng bệnh do virus Herpes simplex như thế nào?
Dưới đây là một số triệu chứng ở người bệnh do virus Herpes gây ra: (3)
1. Nhiễm Herpes simplex ở miệng (gọi tắt là bệnh Herpes môi/miệng)
Khi mắc virus Herpes miệng, trước tiên, một vài vùng da quanh miệng, môi của người bệnh sẽ ngứa ran, nóng rát, đau và phỏng đỏ. Sau đó, mụn nước dần hình thành và xảy ra hiện tượng lở loét xung quanh hoặc bên trong khoang miệng. Tình trạng đau tăng dần theo diễn tiến của bệnh gây khó chịu cho người bệnh, nhất là trẻ nhỏ.
Các mụn nước thường tụ thành từng chùm trên nền da viêm đỏ. mụn nước sẽ vỡ ra sau vài ngày, dịch chảy ra ngoài và tạo ra vết loét trợt nông. Sau đó, vết loét sẽ khô và đóng mài; thỉnh thoảng người bệnh còn ít cảm giác khó chịu, đau đớn và mài bong; không để lại sẹo. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người bệnh có hệ miễn dịch yếu hoặc bội nhiễm sẽ khiến bệnh kéo dài và tiến triển nặng hơn.
Herpes miệng có tần số tái phát khác nhau với mỗi người và thường khởi phát thành từng đợt. Bệnh không thể điều trị dứt điểm hoàn toàn, virus Herpes vẫn luôn tồn tại trong cơ thể người bệnh. Tình trạng Herpes miệng nếu tái phát sẽ kéo dài và nặng hơn lần đầu.
Herpes miệng có tần số tái phát khác nhau với mỗi người và thường khởi phát thành từng đợt
2. Nhiễm Herpes simplex ở vùng sinh dục (gọi tắt là bệnh Herpes sinh dục)
Herpes sinh dục thường bắt đầu với các triệu chứng nhẹ nên rất khó tự nhận biết. Tuy nhiên, khi bệnh bắt đầu diễn tiến nặng, người bệnh sẽ gặp tình trạng lở loét ở bộ phận sinh dục, lan dần xuống hậu môn. Ngoài ra, bệnh Herpes sinh dục còn có thể nhận biết thông qua các triệu chứng:
Sưng hạch bạch huyết.
Đau nhức toàn thân.
Sốt.
Trong đa số trường hợp, bệnh Herpes sinh dục sẽ tự thuyên giảm nếu người bệnh biết vệ sinh tốt và kiêng khem đúng cách. Bệnh Herpes sinh dục thường hiếm gây ra tình trạng nhiễm trùng hay các biến chứng nặng. Tuy nhiên người bệnh cần lưu ý một vài hệ lụy như Herpes bàng quang, Herpes trực tràng và nguy cơ lây nhiễm qua đường sinh dục.
Nguyên nhân nhiễm virus Herpes
Những nguyên nhân gây nhiễm virus Herpes bao gồm: (4)
Thói quen quan hệ tình dục không an toàn (có nhiều bạn tình, không sử dụng bao cao su khi quan hệ,…) chính là nguyên nhân gây bệnh hàng đầu.
Không chú ý vệ sinh bộ phận sinh dục sạch sẽ hoặc chà xát, thụt rửa quá mạnh gây tổn thương sẽ tạo điều kiện cho virus Herpes xâm nhập.
Niêm mạc hoặc da tiếp xúc với vết thương hở có tác nhân gây bệnh là virus Herpes.
Sử dụng chung đồ dùng cá nhân với những người mang virus Herpes như khăn, bàn chải đánh răng, dao cạo râu,…
Thai phụ bị nhiễm virus Herpes có nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con rất cao.
Lây nhiễm virus Herpes thông qua các vết thương hở ở răng – miệng (trám răng, nhổ răng,…) hoặc ở môi (môi bị khô, nứt).
Tình trạng căng thẳng tinh thần, suy nhược cơ thể kéo dài hoặc suy giảm khả năng miễn dịch cũng tăng nguy cơ nhiễm virus Herpes.
Nên làm gì khi phát hiện nhiễm virus Herpes
Trong trường hợp phát hiện nhiễm virus Herpes simplex chưa rõ nguyên, người bệnh có thể cảm thấy bối rối, tức giận và xấu hổ. Một số người nảy sinh nghi ngờ, bực bội với người yêu/vợ/chồng của mình với suy nghĩ rằng đối phương nhiễm bệnh nhưng che giấu và lây cho người thân. Một số người khác cảm thấy mặc cảm và lo sợ bị từ chối bởi người yêu/vợ/chồng.
Sau đây là lời khuyên về những việc người bệnh nên làm sau khi phát hiện nhiễm virus Herpes simplex:
Hãy nói chuyện với người yêu/vợ/chồng về tình trạng bệnh, cảm xúc hiện tại của bản thân cũng như yêu cầu họ nên thành thật. Bạn nên có thái độ cởi mở và tin tưởng trước những điều đối phương chia sẻ, đừng nên chỉ đổ lỗi hoặc gán tội. Virus Herpes simplex có thể tồn tại trong cơ thể người mà không gây ra triệu chứng trong rất nhiều năm. Vì vậy, sẽ rất khó để xác định chính xác thời điểm và nguồn gốc lây nhiễm bệnh.
Bạn cần đến thăm khám ở các cơ sở y tế uy tín để được bác sĩ tư vấn phương pháp vệ sinh, chăm sóc phù hợp, tránh làm nặng thêm tình trạng bệnh cũng như giảm nguy cơ lây nhiễm cho người khác.
Với phụ nữ từng mắc bệnh Herpes nhưng đang lên kế hoạch có thai cần đến bác sĩ chuyên khoa để khám, tư vấn và điều trị đúng quy trình, tránh nguy cơ lây nhiễm cho thai nhi.
Khi quan hệ tình dục, người mắc virus Herpes cần sử dụng các biện pháp an toàn để tránh lây nhiễm cho bạn tình: sử dụng bao cao su, tấm lưới bảo vệ miệng (nếu quan hệ qua đường miệng), không dùng chung đồ cá nhân,…
Virus Herpes có nguy hiểm không?
Virus Herpes gây ra nhiều biến chứng trên cơ thể người bệnh. Các biến chứng này có thể ở mức nhẹ hoặc nguy hiểm hơn tùy giai đoạn bệnh. Một số biến chứng thường gặp:
Viêm nướu răng – miệng cấp tính, đây là tình trạng thường gặp nhất đối với trẻ từ 1 – 5 tuổi.
Gây ra tình trạng loét kết mạc, giác mạc khiến người bệnh cảm thấy đau, xốn mắt, chảy nước mắt, nhạy cảm với ánh sáng, thậm chí dẫn đến mù lòa nếu không điều trị kịp thời.
Không điều trị bệnh kịp thời sẽ dẫn đến viêm màng não – viêm não dạng Herpes cấp tính, trực tiếp đe dọa tính mạng.
Một biến chứng khá nguy hiểm của Herpes là phát ban dạng thủy đậu. Trong một số trường hợp có thể gây ra dạng chốc lở lan nhanh kèm thêm các triệu chứng như cơ thể suy nhược, ớn lạnh, sốt, mụn nước mọc thành chùm. Thời gian diễn tiến của bệnh trong 7 – 10 ngày, lan ra và kết nối thành các mảng loét trợt có phạm vi rộng hơn. Tiếp theo sau đó sẽ dẫn đến bội nhiễm vi trùng Streptococcus hay Staphylococcus.
Gây ra hiện tượng phát ban đối xứng, hay còn gọi là hồng ban đa dạng. Hiện tượng này xuất hiện dưới nhiều dạng như mảng hoặc sần ở tay và chân.
Một số biến chứng khác bao gồm viêm khớp, viêm đường hô hấp, viêm gan, viêm não, nhức đầu, liệt dây thần kinh sọ não, đau dây thần kinh ngoại biên.
Phương pháp chẩn đoán virus Herpes
Xét nghiệm và thăm khám lâm sàng là 2 phương pháp chẩn đoán virus Herpes. Những xét nghiệm thường được chỉ định bao gồm:
Xét nghiệm máu để dò tìm và phát hiện sự tồn tại của kháng thể HSV-1, HSV-2.
Xét nghiệm phản ứng chuỗi Polymerase với mẫu xét nghiệm là dịch não tủy hoặc máu, hoặc thử nghiệm DNA để dò tìm và phát hiện ra virus Herpes.
Xét nghiệm bệnh phẩm như dịch trong mụn nước nhỏ, dịch ở mô liên kết xảy ra tình trạng đau, bị nghi ngờ nhiễm bệnh như âm đạo, trực tràng, hậu môn, cổ họng, miệng, mũi.
Xét nghiệm máu để dò tìm và phát hiện sự tồn tại của kháng thể HSV-1, HSV-2
Cách điều trị bệnh do virus Herpes gây ra
Virus Herpes không thể bị loại bỏ hoàn toàn ở cơ thể người. Tuy nhiên chăm sóc và điều trị đúng cách sẽ góp phần làm giảm các triệu chứng, rút ngắn thời gian phát bệnh, chống bội nhiễm ở vết thương và phòng ngừa bệnh tái phát.
Việc điều trị bệnh Herpes nên tiến hành sớm nhằm giảm triệu chứng toàn thân, tránh lan sang các bộ phận khác.
Người bị Herpes sinh dục cần trao đổi thẳng thắn với bạn tình và sử dụng biện pháp an toàn khi quan hệ tình dục.
Trường hợp xảy ra bội nhiễm thì sử dụng kháng sinh phổ rộng để điều trị.
Áp dụng chế độ nghỉ ngơi hợp lý, ăn uống khoa học, bổ sung vitamin cho cơ thể để tăng sức đề kháng.
Vùng da nổi mụn rộp Herpes cần được giữ thông thoáng và vệ sinh sạch sẽ.
Người bệnh có thể chườm lạnh để giảm cơn đau do mụn rộp Herpes gây ra ở miệng. Ngoài ra, việc tắm nước ấm sẽ giúp cải thiện cơn đau gây ra bởi vết loét Herpes sinh dục.
Biện pháp phòng ngừa virus Herpes
Để phòng ngừa các bệnh lý do virus Herpes, mọi người nên chủ động áp dụng các biện pháp sau đây:
Giữ đời sống tình dục lành mạnh (giữ vững tình trạng chung thủy một vợ một chồng, sử dụng các biện pháp an toàn khi quan hệ tình dục).
Không dùng chung đồ dùng cá nhân vì đây là nơi tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm virus Herpes.
Vệ sinh vùng kín sạch sẽ, tuy nhiên cần nhẹ nhàng, tránh chà xát quá mạnh. Nên sử dụng dung dịch vệ sinh theo tư vấn bác sĩ, tránh mặc đồ lót ẩm hoặc quần áo quá chật cũng là cách phòng ngừa virus Herpes.
Tăng cường luyện tập thể dục thể thao, duy trì nghỉ ngơi, thư giãn hợp lý và ăn uống điều độ.
Thăm khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần nhằm phát hiện tình trạng nhiễm virus Herpes và điều trị kịp thời.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Hà Nội:
108 Hoàng Như Tiếp, P.Bồ Đề, Q.Long Biên, TP.Hà Nội
Bài viết trên đây là toàn bộ những thông tin chi tiết giúp bạn đọc dễ dàng giải đáp những thắc mắc xoay quanh virus Herpes. Nắm rõ các kiến thức về bệnh do virus Herpes sẽ giúp bạn áp dụng đúng phương pháp điều trị, phòng ngừa bệnh hiệu quả, đảm bảo an toàn sức khỏe cho chính bản thân mình và mọi người xung quanh.