Viêm đa cơ gây tổn thương cơ vân và nhiều cơ quan khác trên cơ thể. Người bệnh không được điều trị kịp thời sẽ bị yếu cơ, giảm khả năng vận động, tăng nguy cơ tàn phế cũng như gặp phải các tổn thương hệ cơ quan nghiêm trọng khác. Vậy, viêm đa cơ là bệnh gì, triệu chứng của căn bệnh này như thế nào và khi nào cần đi khám với bác sĩ?

Viêm đa cơ là bệnh thuộc nhóm viêm cơ tự miễn hiếm gặp. Tình trạng viêm cơ hiếm gặp này đặc trưng bởi tình trạng yếu cơ đối xứng và tiến triển, tổn thương nổi ban da hoặc loét da, kèm những triệu chứng ngoài cơ như rối loạn chức năng thực quản gây nuốt khó, tổn thương phổi mô kẽ, tăng nguy cơ ung thư…
Bệnh viêm đa cơ (polymyositis) và viêm da cơ (dermatomyositis) cùng thuộc nhóm bệnh tự miễn và có thể xảy ra với bất cứ đối tượng nào, thường gặp ở nữ giới trung niên, gây ra sự tổn thương cơ vân khiến người bệnh gặp khó khăn trong các sinh hoạt ngày thường. (1)
Cơ vân là nhóm cơ chính thực hiện các chuyển động của cơ thể từ đơn giản đến phức tạp. Khi nhóm cơ này bị tổn thương sẽ ảnh hưởng đến khả năng chuyển động của cơ bắp. Hơn nữa, khớp, hệ thống dây chằng, gân cơ, thần kinh lân cận cũng bị ảnh hưởng, gây hạn chế tầm vận động của người bệnh.
Bệnh nếu điều trị kịp thời và phác đồ điều trị phù hợp có thể giúp cải thiện tốt triệu chứng và kiểm soát bệnh. Tuy nhiên, việc trì hoãn điều trị có thể tiềm ẩn những biến chứng nguy hiểm.

Triệu chứng yếu cơ là tình trạng cơ viêm không còn khả năng chịu lực, thể hiện qua việc người bệnh không thể thực hiện những hành động đơn giản như đi lại, leo cầu thang, giơ tay lên cao (nếu viêm cơ xảy ra ở nhóm cơ bắp chi trên), ngồi xổm. Đây là triệu chứng cảnh báo bệnh viêm đa cơ đã tiến vào giai đoạn nặng. Bệnh sẽ tiếp diễn thành những biến chứng nặng nề hơn như teo cơ, co rút chi (hiếm gặp). (2)
Đau khớp có thể gặp trong một số thể của viêm cơ tự miễn, có thể nhầm lẫn thành triệu chứng đau cơ. Người bệnh bị cản trở khi vận động nhiều, nhưng ở mức độ nặng nề, cơn đau nhức khớp sẽ gây ra sự khó chịu khiến người bệnh ngại vận động. Đi kèm với đau là tình trạng sưng khớp, đôi khi có thể gây biến dạng khớp.
Đây là căn bệnh có liên quan đến cơ chế tự miễn của cơ thể. Những yếu tố rủi ro gây bệnh bao gồm nhiễm trùng, phản ứng viêm nhiễm xảy ra bên trong cơ thể. Lúc này, hệ miễn dịch bị rối loạn làm ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể. Người bệnh có thể gặp những dấu hiệu đặc trưng của suy nhược cơ thể bao gồm mệt mỏi, nóng sốt, đau nhức toàn thân, đau họng…
Một số triệu chứng khác có thể gặp của viêm đa cơ tự miễn bao gồm:
Tùy vào tình trạng của mỗi người bệnh mà các triệu chứng bùng phát sẽ khác nhau. Không phải tất cả người bệnh viêm cơ tự miễn sẽ có toàn bộ những triệu chứng lâm sàng này. Do vậy, phác đồ điều trị viêm cơ cần được cá nhân hóa dựa trên thể bệnh, đặc điểm sức khỏe và triệu chứng lâm sàng của từng người bệnh.
Những tổn thương hệ cơ quan nguy hiểm mà người bệnh viêm cơ có thể gặp phải:
Nguyên nhân trực tiếp gây ra viêm cơ tự miễn hiện nay vẫn chưa được xác định rõ. Bệnh thường là vô căn, phổ biến ở độ tuổi từ 31 – 60. Các nghiên cứu chỉ ra bệnh viêm đa cơ có sự liên quan mật thiết với các phản ứng tự miễn trong cơ thể, có thể bị kích hoạt bởi vi khuẩn ngoại lai. Những nguyên nhân cụ thể có khả năng gây ra tình trạng rối loạn hệ thống miễn dịch trong cơ thể bao gồm: (3)
Nguy cơ mắc bệnh viêm đa cơ sẽ càng cao nếu người bệnh có ba mẹ hoặc bất cứ người thân nào trong gia đình đã từng mắc phải căn bệnh này hoặc các bệnh lý tự miễn khác. Nguyên nhân này thường xảy ra ngẫu nhiên và hầu như không có cách phòng tránh. Trong một số trường hợp, phụ nữ nên đi khám tiền sản ngay khi có kế hoạch mang thai và theo chỉ định của bác sĩ.
Nhiễm trùng thường xuất phát từ những vết thương ngoài da, phổ biến ở các vết thương hở không được vệ sinh đúng cách. Ngoài ra, thực phẩm không sạch sẽ, nguồn nước và môi trường sống ô nhiễm cũng là 2 yếu tố rủi ro gây nhiễm trùng kích hoạt bệnh viêm cơ.
Bên cạnh viêm đa cơ hoặc da cơ, người bệnh cũng dễ gặp phải các vấn đề xương khớp khác do nhiễm trùng như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, thấp khớp cấp,…
Bệnh viêm đa cơ cũng có thể đồng mắc với các bệnh tự miễn khác, bao gồm:

Đây là bước đầu tiên bao gồm đánh giá, xem xét triệu chứng, thu thập thông tin bệnh sử và tiền sử của bệnh nhân. Bác sĩ sẽ chẩn đoán người bệnh có bị viêm cơ tự miễn hay không dựa trên bảng tiêu chuẩn đánh giá bệnh, bao gồm:
Cuối cùng, cần thực hiện chẩn đoán phân biệt để loại trừ khả năng người bệnh mắc các bệnh lý khác có triệu chứng tương đồng với bệnh, bao gồm:
Viêm đa cơ tự miễn nếu điều trị kịp thời sẽ dễ kiểm soát và thuyên giảm các triệu chứng bệnh. Tuy nhiên, bệnh cũng dễ có các đợt bùng phát nếu người bệnh không theo dõi, quản lý tốt tình trạng bệnh. (4)
Cần lưu ý, bệnh không trực tiếp diễn tiến thành ung thư, nhưng một số trường hợp bệnh có liên quan đến khả năng ung thư. Vì vậy, bệnh nên được đi khám và điều trị sớm để bác sĩ kịp thời can thiệp các nguy cơ tiềm ẩn.

Thuốc corticosteroid là chỉ định điều trị đầu tay, liều lượng phụ thuộc vào trọng lượng từng người bệnh, thường khởi đầu với 1mg/kg trọng lượng cơ thể. Bác sĩ sẽ cân nhắc vào đặc điểm bệnh của từng người mà lựa chọn và có kế hoạch tăng giảm liều phù hợp.
Ngoài ra, trong đa số trường hợp bác sĩ cũng có thể chỉ định thuốc ức chế miễn dịch để kiểm soát bệnh và giảm liều dần corticoid.
Lọc huyết tương là một phương pháp phân tách huyết tương ra khỏi máu. Thay thế lượng máu này bằng một loại dung dịch khác như albumin, nước muối hoặc phần huyết tương đã được xử lý xong. Đây là phương pháp điều trị các bệnh lý tự miễn, bao gồm viêm cơ tự miễn.
Tuy nhiên, bác sĩ sẽ chỉ áp dụng thực hiện lọc huyết tương như một phương pháp phối hợp để tăng hiệu quả phác đồ điều trị thuốc chính. Hoặc khi người bệnh không đáp ứng các phương pháp khác thì mới thực hiện lọc huyết tương.
Truyền tĩnh mạch immunoglobulin được chỉ định cho những trường hợp viêm đa cơ nặng, người bệnh không đáp ứng với những điều trị khác. Quá trình truyền tĩnh mạch cần được theo dõi sát sao và thường phải lặp lại phác đồ.
Tập vật lý trị liệu hay các chương trình phục hồi chức năng đóng vai trò quan trọng trong điều trị các bệnh lý về cơ xương khớp. Bác sĩ sẽ kết hợp phục hồi chức năng với một phương pháp điều trị khác để tối ưu hóa trong phục hồi sức cơ, hạn chế tình trạng yếu cơ, duy trì cơ bắp tốt.
Với mỗi thể trạng sẽ có chương trình tập luyện khác nhau. Người bệnh cần tham vấn với chuyên viên phục hồi chức năng để được thiết kế chương trình phù hợp. Đồng thời, đảm bảo an toàn, quá trình luyện tập nên thực hiện dưới sự giám sát của kỹ thuật viên.
Bệnh viêm cơ tự miễn xảy ra do cơ thể tự sản sinh ra những kháng thể chống lại các tế bào cơ. Để phòng ngừa bệnh, phải phòng ngừa các yếu tố rủi ro kích hoạt các phản ứng tự miễn bất thường của cơ thể bao gồm vệ sinh môi trường sống, khói thuốc lá… Đồng thời, hạn chế các thói quen có thể làm giảm sức đề kháng của cơ thể như lạm dụng rượu bia, lối sống ít vận động…
Bệnh viêm đa cơ có thể xảy ra với bất cứ đối tượng nào. Tuy nhiên, những người từng mắc các bệnh lý tự miễn hoặc có người thân bị bệnh tự miễn sẽ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn.
Bệnh viêm đa cơ có nguy cơ tiển triển nặng trong một số trường hơpk. Bệnh gây ra những bất tiện trong sinh hoạt và làm giảm chất lượng sống của người bệnh. Ngoài ra, có thể dẫn đến tình trạng suy giảm chức năng như chứng khó nuốt, viêm phổi mô kẽ, thậm chí nguy cơ ung thư ở người bệnh. Vì vậy, không nên trì hoãn điều trị, làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng, tổn thương nặng và phức tạp.
Hiện nay vẫn chưa có phương pháp điều trị triệt căn viêm đa cơ. Tuy nhiên, bệnh có thể kiểm soát tốt và giảm thiểu tối đa các đợt bùng phát cấp tính. Ngăn ngừa sợi cơ bị tổn thương nặng hơn và phòng ngừa các biến chứng có thể xảy ra.
Để đặt lịch thăm khám và điều trị các bệnh lý cơ xương khớp với các chuyên gia bác sĩ của Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, xin vui lòng liên hệ:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Viêm đa cơ là bệnh lý tự miễn gây ra triệu chứng yếu cơ đặc hiệu, kèm với các biểu hiện như đau khớp, teo cơ, giảm tầm vận động… Nguyên nhân viêm cơ tự miễn là vô căn, có liên quan đến các phản ứng tự miễn. Người bệnh nên nhanh chóng đi khám với bác sĩ để được kịp thời can thiệp và ngăn chặn các rủi ro tiềm ẩn của bệnh.