Vi khuẩn bạch hầu là tác nhân gây ra bệnh bạch hầu, có tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe của con người. Vậy, vi khuẩn bạch hầu là gì? Đối tượng nào dễ bị nhiễm loại vi khuẩn này?
Vi khuẩn bạch hầu tên là Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae. Trong đó, họ Corynebacteriaceae bao gồm các loại vi khuẩn như Erysipelothrix, Corynebacterium, Listeria… Trên thực tế, ngoại trừ Corynebacterium diphtheriae, hầu hết vi khuẩn họ Corynebacteriaceae thường ít nguy cơ gây bệnh ở người.
Vi khuẩn bạch hầu có thể sinh sống ở ngoài môi trường lẫn bên trong cơ thể người. Theo các chuyên gia, vi khuẩn bệnh bạch hầu có thể sống trong đất và ký sinh ở cơ thể của người hoặc súc vật. Chúng rất hiếu khí và có xu hướng phát triển tối đa trong môi trường máu và huyết thanh.
Nhờ được bảo vệ bởi sự bao phủ của lớp nhầy, vi khuẩn bệnh bạch hầu có khả năng sống cao, chịu được điều kiện môi trường lạnh giá, hanh khô. Ở từng môi trường khác nhau, thời gian sống của loại vi khuẩn này thường có sự chênh lệch, nhìn chung chúng có thể tồn tại trong khoảng thời gian tương đối dài. Ví dụ, vi khuẩn bệnh bạch hầu có thể sống trong các loại vải khoảng 30 ngày, trong sữa tươi hoặc nước khoảng 20 ngày, trong tử thi khoảng 15 ngày….
Tuy vậy, vi khuẩn bệnh bạch hầu có độ nhạy cảm tương đối cao với các yếu tố lý hóa. Cụ thể, chúng sẽ bị “tiêu diệt” sau vài giờ đồng hồ nếu tiếp xúc trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời và sau vài ngày khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời khuếch tán. Ngoài ra, trong điều kiện nhiệt độ từ 58 độ C, vi khuẩn gây bệnh bạch hầu chỉ có thể tồn tại khoảng 10 phút và thời gian sống chỉ còn dưới 1 phút nếu chúng tiếp xúc với cồn từ 60 độ, chất sát khuẩn hoặc phenol 1%.
Khả năng gây bệnh của vi khuẩn bạch hầu chỉ phát huy khi chúng bị nhiễm beta-phage (thực khuẩn) thể mang gen tạo nên độc tố. Sau khi vào bên trong cơ thể, vi khuẩn này sẽ xâm nhập và bám vào lớp niêm mạc (chủ yếu ở đường hô hấp), sau đó sẽ bắt đầu giải phóng nội độc tố.
Độc tố được sản sinh ngay tại vị trí màng được hấp thu vào máu, sau đó sẽ phân bổ đến các mô trong cơ thể. Loại độc tố này có tác động cục bộ đến các tổn thương trên da, đồng thời gây di căn và phân giải các protein trên hệ cơ quan khác trong trường hợp bị nhiễm trùng nghiêm trọng.
Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu sẽ gây nhiễm trùng cục bộ tại đường hô hấp (phổ biến là vùng mũi hầu, hầu họng) và có thể làm khởi phát một số bệnh lý khác bao gồm viêm mũi họng màng, nhiễm trùng da, viêm thanh khí quản tắc nghẽn…. Nếu không được điều trị kịp thời, các bệnh lý này có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như tắc nghẽn đường thở, viêm cơ tim, bệnh ở hệ thần kinh trung ương qua trung gian độc tố (CNS)….
Dựa trên đặc tính sinh hóa và hình thái khuẩn lạc, vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có thể xuất hiện ở các dạng sinh học khác nhau. Mỗi loại sẽ được phân biệt bởi phản ứng lên men, hình thái khuẩn lạc và sự tan máu, cụ thể như sau: (1)
Vi khuẩn bạch hầu với kiểu gen Mitis được xác định bởi gen mecA kiểu Mitis. Đây là loại gen được tìm thấy phổ biến ở nhiều mẫu khác nhau, phổ biến nhất trong các loại vi khuẩn gây bệnh bạch hầu, gây dịch tản phát, dai dẳng.
Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu kiểu gen Intermedius được xác định bởi gen mecA kiểu Intermedius. Đây là gen trung gian, kết hợp nhiều đặc điểm của các kiểu gen khác. Type vi khuẩn này gây dịch ít hơn.
Vi khuẩn bệnh bạch hầu kiểu gen Gravis được xác định bởi gen mecA kiểu Gravis. Loại vi khuẩn này có thể gây bệnh ở mức độ nghiêm trọng với nhiều biểu hiện lâm sàng nặng nề hơn các kiểu gen khác và khả năng gây dịch lớn.
Ngoài Mitis, Intermedius và Gravis, vi khuẩn bệnh bạch hầu còn được xác định bởi kiểu gen Belfanti.
Mọi đối tượng tiếp xúc với nguồn chứa vi khuẩn bạch hầu đều có nguy cơ mắc bệnh. Trong đó, nguy cơ mắc bệnh bạch hầu có thể gia tăng đáng kể ở một số đối tượng như người không tiêm ngừa hoặc chưa tiêm đủ vaccine phòng bệnh, người bị suy giảm hệ miễn dịch do tuổi tác hoặc mắc bệnh nền (đặc biệt là bệnh rối loạn miễn dịch), trẻ em có hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, người sống trong môi trường hạn chế ánh sáng mặt trời và kém vệ sinh….
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn gây bệnh bạch hầu sẽ gây ra tình trạng nhiễm trùng, làm khởi phát các triệu chứng đặc hiệu. Ở mỗi vị trí nhiễm trùng, triệu chứng của bệnh sẽ có sự khác nhau, cụ thể như sau:
Ngoài ra, vi khuẩn bạch hầu còn có thể gây bệnh tại các vị trí khác trong cơ thể, tuy nhiên những trường hợp này thường không gây ra các triệu chứng nghiêm trọng và ít phổ biến.
Để có thể chẩn đoán chính xác sự hiện diện của vi khuẩn bạch hầu trong cơ thể, người bệnh cần đến bệnh viện để bác sĩ thăm khám lâm sàng và thực hiện kiểm tra mẫu dịch từ hầu họng.
Sau khi thu thập được mẫu dịch từ người bệnh, bác sĩ sẽ tiến hành làm tiêu bản nhuộm Gram quan sát dưới kính hiển vi, trực khuẩn bắt màu Gram (+) với hai đầu to hoặc nhuộm Albert, trực khuẩn bắt màu xanh.
Bên cạnh đó, các bác sĩ còn có thể đưa ra chẩn đoán bệnh do vi khuẩn bạch hầu gây nên thông qua phương pháp phân lập vi khuẩn ở môi trường đặc hiệu. Tuy nhiên, thời gian cho kết quả của phương pháp chẩn đoán này tương đối chậm.
Bệnh lý do vi khuẩn bạch hầu gây nên có mức độ nguy hiểm cao, có thể dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng cho bản thân người bệnh và cộng đồng. Bởi vì, vi khuẩn bệnh bạch hầu có tính lây truyền cao, có thể dễ dàng lây lan từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc trực tiếp với nguồn bệnh hoặc gián tiếp với giọt bắn chứa vi khuẩn. Ngoài ra, một cá nhân có thể bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu nhiều hơn một lần.(2)
Tỷ lệ tử vong của người bị nhiễm vi khuẩn bệnh bạch hầu là từ 5 – 10% và có xu hướng gia tăng đến 20% ở người trên 40 tuổi và trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Bên cạnh đó, tỷ lệ tử vong ở người không được điều trị bệnh đúng cách hoặc chưa được tiêm vaccine bệnh bạch hầu có thể lên đến 30%.
Đặc biệt, tỷ lệ tử vong do mắc bệnh bạch hầu ở phụ nữ mang thai lên đến 50%, trong đó khoảng ⅓ trường hợp thai phụ bảo toàn được mạng sống bị sinh non hoặc sảy thai.
Vi khuẩn bạch hầu có tính lây nhiễm rất cao, chúng sẽ dễ dàng lây lan thông qua đường hô hấp bằng cách tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc gián tiếp với đồ dùng, vật dụng dính phải giọt bắn chứa vi khuẩn. Ngoài ra, tiếp xúc với vết loét của người bệnh bạch hầu cũng có thể bị lây nhiễm căn bệnh này.
Bệnh bạch hầu có thể được chữa trị bằng thuốc, người bệnh cần sớm đến bệnh viện để bác sĩ thăm khám và đưa ra hướng điều trị phù hợp.
Phác đồ điều trị bệnh bạch hầu bằng thuốc thường bao gồm các loại thuốc kháng sinh (penicillin tiêm bắp hoặc erythromycin) và thuốc giải độc tố bạch hầu. Hiệu quả điều trị sẽ đạt mức tối đa trong giai đoạn đầu của bệnh bạch hầu. Trong quá trình điều trị, bác sĩ có thể chỉ định thêm các liệu pháp khác để hỗ trợ chữa trị triệu chứng giúp cải thiện tình trạng sức khỏe cho người bệnh tối ưu.(3)
Sau khi kết thúc phác đồ điều trị, người bệnh cần thực hiện xét nghiệm để kiểm tra lượng vi khuẩn bạch hầu còn trong cơ thể. Người bệnh chỉ thật sự khỏi bệnh và không còn nguy cơ lây bệnh cho cộng đồng khi xét nghiệm cho kết quả âm tính liên tiếp 2 lần cách nhau 24 giờ, với mẫu phết họng lần đầu được thực hiện sau khi đã ngưng kháng sinh trên 24 giờ.
Hiện nay, bệnh do vi khuẩn bạch hầu gây nên có thể được phòng ngừa bằng cách tiêm phòng vaccine. Tại Việt Nam, vẫn chưa có vaccine đơn phòng ngừa bệnh bạch hầu mà hầu hết là loại phối hợp chứa thành phần kháng nguyên bạch hầu.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), để dự phòng hiệu quả nguy cơ mắc bệnh bạch hầu dài lâu, mỗi người nên được tiêm phòng đủ 6 liều vaccine bắt đầu từ lúc trẻ sơ sinh 6 tuần tuổi đến giai đoạn vị thành niên. Hiện tại, người dân có thể chủ động đăng ký tiêm phòng bệnh bạch hầu tại các cơ sở y tế uy tín, đơn cử như Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh hoặc Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em và Người lớn VNVC.
Bên cạnh đó, mỗi người có thể phòng tránh nguy cơ bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu bằng cách:
Bệnh bạch hầu là do độc tố nhiễm trực khuẩn Gram dương – Corynebacterium diphtheriae gây ra .
Ngay khi nhận thấy các biểu hiện nghi ngờ nhiễm vi khuẩn bạch hầu, người bệnh cần sớm đến bệnh viện để được thăm khám và điều trị kịp thời. Trong quá trình tiếp nhận điều trị, người bệnh cần thông báo ngay cho bác sĩ về các biểu hiện bất thường như đau ngực dữ dội, khó thở, mệt mỏi…. để có biện pháp xử trí kịp thời, tránh nguy cơ xảy ra biến chứng nguy hiểm.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Tóm lại, vi khuẩn bạch hầu có thể dễ dàng lây lan nhanh chóng trong cộng đồng. Tiêm phòng vaccine đầy đủ là biện pháp giúp ngăn ngừa hiệu quả bệnh do vi khuẩn bạch hầu gây nên. Mỗi người cần có kế phòng phòng nhiễm vi khuẩn bệnh bạch hầu hiệu quả, theo tư vấn của chuyên gia y tế.