Ung thư vòm họng giai đoạn đầu thường bị nhầm lẫn với các dấu hiệu của bệnh lý lành tính khác như cảm cúm, viêm họng, viêm đường hô hấp nên không điều trị kịp thời khiến bệnh tiến triển. Khi bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm, tỷ lệ điều trị khỏi cao và tăng thời gian sống còn, ước tính trên 80% bệnh nhân được kỳ vọng sống trên 5 năm.
Theo Bác sĩ Trần Vương Thảo Nghi, Trưởng khoa Ung bướu BVĐK Tâm Anh TP.HCM, mặc dù không phổ biến như các loại ung thư gan – phổi – đường tiêu hóa, nhưng ung thư vòm họng vẫn là mối đe dọa tiềm ẩn, đặc biệt đối với người Trung Quốc và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Do đó, bên cạnh phòng ngừa, việc tầm soát để giúp chẩn đoán sớm và có phương án điều trị kịp thời đóng vai trò quyết định đối với tiên lượng sống sau 5 năm của người bệnh.
Bệnh ung thư vùng đầu cổ (có thể được hiểu một cách đơn giản là bao gồm ung thư vòm họng, ung thư thanh quản, ung thư mũi, ung thư xoang và ung thư miệng) có số lượng các trường hợp mới được chẩn đoán trên toàn thế giới mỗi năm ước tính là hơn 550.000 với khoảng 380.000 trường hợp tử vong. (1)
Theo số liệu từ Globocan, năm 2012 trên thế giới có 86.691 trường hợp mắc phải căn bệnh ung thư này, trong đó 60.896 trường hợp mắc mới ở nam và 25.795 trường hợp mắc mới ở nữ. Đã có 50.831 trường hợp tử vong do căn bệnh này, trong đó 35.756 trường hợp xảy ra ở nam giới và 15.075 trường hợp ở nữ giới.
Ung thư vòm họng giai đoạn đầu hay giai đoạn 1 là giai đoạn khối u ung thư chỉ phát triển tại vòm họng và chưa di căn sang các vị trí khác. Đây được xem là giai đoạn sớm của bệnh, với tỷ lệ chữa khỏi thành công và tiên lượng sống cao.
Theo bác sĩ Trần Vương Thảo Nghi, giai đoạn đầu của bệnh có các triệu chứng không rõ ràng, thường dễ gây nhầm lẫn với các bệnh viêm mũi họng thông thường. Chính vì vậy bệnh thường rất khó phát hiện. Nổi hạch cổ có thể là biểu hiện ung thư sớm ở nhiều bệnh nhân.
Các triệu chứng k vòm họng giai đoạn đầu có thể bao gồm:
Tỷ lệ sống còn của một loại bệnh ung thư, có thể được hiểu theo một cách đơn giản, là tỷ lệ phần trăm những người mắc loại bệnh ung thư đó vẫn còn sống trong một khoảng thời gian nhất định (thông thường là 5 năm) sau khi được chẩn đoán và điều trị. Tỷ lệ này không cho biết cụ thể một người mắc bệnh sẽ sống được bao lâu, nhưng có thể giúp hiểu rõ hơn về khả năng thành công của việc điều trị. Bệnh ung thư được chẩn đoán ở giai đoạn càng sớm, khả năng điều trị thành công khỏi hẳn bệnh càng cao, đồng nghĩa với tỷ lệ sống sót càng cao.
Bệnh được phát hiện ở giai đoạn đầu thường có kết quả tốt, tỷ lệ sống trong 5 năm là 60-75%. Trong khi bệnh nhân ung thư vòm họng ở giai đoạn cuối có kết quả kém, tỷ lệ sống trong 5 năm là <40%. (2)
Bác sĩ có thể sử dụng một số phương pháp để tầm soát và chẩn đoán, nếu nghi ngờ mắc bệnh, như:
Bác sĩ Trần Vương Thảo Nghi cho biết, ung thư vòm họng giai đoạn 1 thường được điều trị theo phác đồ kết hợp xạ trị và hóa trị. Phẫu thuật gần như không có vai trò điều trị triệt để trong giai đoạn này.
Tùy vào giai đoạn ung thư vòm họng và tình trạng khối u cũng như tình trạng di căn hạch, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ phối hợp xạ trị với hóa trị khác nhau.
Ví dụ: Nếu bệnh nhân có di căn hạch cổ 2 bên với kích thước lớn, có thể hóa trị trước một vài đợt để làm giảm kích thước hạch, sau đó xạ trị đồng thời với hóa trị; tùy theo kết quả đáp ứng với hóa xạ trị đồng thời mà quyết định có cần hóa trị thêm hay không. Thuốc hóa trị thường được sử dụng có thể bao gồm Cisplatin, Carboplatin, 5-FU, Docetaxel, Gemcitabine, Capecitabine.
Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy hóa xạ trị đồng thời giúp mang lại kết quả điều trị tốt hơn, giúp bệnh nhân sống lâu hơn so với chỉ xạ trị đơn thuần. Nhưng việc kết hợp thêm hóa trị có thể sẽ dẫn đến nhiều tác dụng phụ hơn, gây ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh.
Trong những trường hợp vẫn còn hạch cổ sau khi kết thúc hóa xạ trị, có thể xét chỉ định phẫu thuật nhằm mục đích lấy bỏ hạch cổ, giúp kiểm soát bệnh tốt hơn.
Theo bác sĩ Trần Vương Thảo Nghi, không có phương pháp cụ thể nào giúp phòng tránh được ung thư, nhưng vẫn có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh bằng cách tránh một số yếu tố nguy cơ sau: (3)
Tìm hiểu thêm: Nguyên nhân gây ung thư vòm họng phổ biến
Môi trường làm việc có nguy cơ tiếp xúc với các hóa chất cần bố trí tốt hệ thống thông gió, sử dụng các phương tiện phòng hộ cần thiết (mặt nạ, quần áo, mũ,…) là các biện pháp bảo vệ quan trọng.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến nghị, tuân thủ chế độ ăn uống lành mạnh với đầy đủ các nhóm dinh dưỡng (đạm, tinh bột, chất béo, chất xơ, vitamin và chất khoáng, các sản phẩm từ sữa) bao gồm nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt, cân bằng giữa các loại đạm, hạn chế việc tiêu thụ quá nhiều các loại thịt đỏ và thực phẩm chế biến sẵn cũng như đồ uống có cồn.
Nguy cơ nhiễm HPV ở vùng hầu họng tăng lên ở những người có quan hệ tình dục qua đường miệng và nhiều bạn tình. Những người hút thuốc có nhiều khả năng bị nhiễm HPV hơn, có thể là do các chất trong thuốc lá làm hỏng hệ thống miễn dịch hoặc làm tổn thương các tế bào lót vùng hầu họng.
Tiêm vắc xin phòng HPV giúp làm giảm nguy cơ nhiễm một số loại HPV. Việc phòng ngừa lây nhiễm HPV giúp giảm yếu tố nguy cơ gây bệnh ung thư cổ tử cung, đồng thời cũng đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư khác liên quan đến HPV (chẳng hạn như ung thư hậu môn, ung thư dương vật, ung thư vùng miệng và hầu họng).
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Ung thư vòm họng giai đoạn đầu vẫn có tỷ lệ chữa khỏi tương đối khả quan. Do đó, việc chủ động phòng ngừa các yếu tố nguy cơ và thực hiện tầm soát ung thư định kỳ sẽ giúp giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh hoặc phát hiện bệnh trong giai đoạn sớm.