Ức chế buồng trứng có thể giảm thiểu nguy cơ tái phát ung thư ở một số phụ nữ bị ung thư vú tiền mãn kinh. Phương pháp điều trị này liên quan đến việc ngừng sản xuất estrogen (một loại hormone sinh sản) bởi buồng trứng, hormone này có thể thúc đẩy sự phát triển của các tế bào ung thư vú dương tính với thụ thể hormone. Vậy ức chế chức năng buồng trứng là gì? Có tác dụng phụ không? Chỉ định như thế nào? Bài viết sau của thạc sĩ bác sĩ Nguyễn Đỗ Thùy Giang, Trưởng khoa Ngoại Vú, BVĐK Tâm Anh TP.HCM sẽ giải đáp chi tiết phương pháp này.
Ức chế chức năng buồng trứng là phương pháp điều trị nhằm ngăn chặn việc sản xuất estrogen từ buồng trứng của phụ nữ. Phương pháp này áp dụng chủ yếu ở phụ nữ chưa mãn kinh, đang điều trị ung thư vú dương tính với thụ thể hormone (HR+), một loại ung thư vú phụ thuộc vào các hormone như estrogen để tế bào ung thư phát triển.
Estrogen được tạo ra bởi buồng trứng của phụ nữ tiền mãn kinh và có chức năng điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Mô vú bình thường phản ứng với estrogen và nhiều bệnh ung thư sử dụng cơ chế tương tự để tồn tại. Sau phẫu thuật, người bệnh được áp dụng phương pháp ức chế chức năng buồng trứng để chống lại cơ chế này.
Các loại thuốc giảm nồng độ estrogen hoặc ức chế việc sử dụng estrogen của các tế bào ung thư được áp dụng. Nói một cách đơn giản, ức chế buồng trứng giảm nồng độ estrogen trong cơ thể nên tế bào ung thư không thể tiếp tục phát triển.
Ức chế buồng trứng được sử dụng:
Ức chế buồng trứng có một số tác dụng trong điều trị ung thư vú, cụ thể như sau:
Người bệnh tiền mãn kinh không nhất thiết phải ức chế chức năng buồng trứng nếu có nguy cơ ung thư vú thấp (khối u nhỏ, không xâm lấn đến hạch bạch huyết và tỷ lệ tái phát thấp).
Bác sĩ cũng không áp dụng biện pháp ức chế chức năng buồng trứng cho người bệnh có khối u biểu hiện hormone thấp (ví dụ: tín hiệu estrogen dưới 20%). Các khối u biểu hiện hormone thấp ít có khả năng đáp ứng với liệu pháp nội tiết vì khối u không phụ thuộc vào estrogen.
Các đối tượng chỉ định ức chế chức năng buồng trứng bao gồm:
Ức chế chức năng buồng trứng chủ yếu được áp dụng cùng với thuốc ức chế hormone sau phẫu thuật vú ở người bệnh ung thư vú tiền mãn kinh, dương tính với hormone mãn kinh sớm.
Mục đích là ức chế nồng độ estrogen trong cơ thể đến trạng thái sau mãn kinh, thông qua thuốc hoặc phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng. Từ đó ngăn buồng trứng sản xuất estrogen và cung cấp thêm một tuyến phòng thủ ngừa ung thư tái phát.
Ức chế chức năng buồng trứng hiệu quả hơn ở phụ nữ dưới 35 tuổi và không hiệu quả ở phụ nữ sau mãn kinh vì cơ thể đã ngừng sản xuất hormone tự nhiên.
Phương pháp ức chế chức năng buồng trứng có hiệu quả nhất ở phụ nữ tiền mãn kinh sau hóa trị. Nhưng với phụ nữ tiền mãn kinh lớn tuổi, tác dụng của phương pháp này sẽ không cao.
Mục tiêu sử dụng ức chế chức năng buồng trứng trong điều trị ung thư vú bao gồm:
Ức chế buồng trứng có thể được áp dụng như một phần trong quá trình điều trị ung thư vú nguyên phát. Bác sĩ sẽ xem xét các đặc điểm khác nhau của bệnh ung thư như: giai đoạn, kích thước khối u và mức độ bệnh để quyết định áp dụng phương pháp ức chế buồng trứng. Các yếu tố khác cũng được xem xét như:
Ức chế buồng trứng có thể được áp dụng để điều trị ung thư vú thứ phát ở phụ nữ tiền mãn kinh. Bác sĩ sẽ thảo luận với người bệnh trước khi quyết định phương pháp điều trị phù hợp.
Có 2 loại ức chế buồng trứng chính: dùng thuốc và phẫu thuật.
Ức chế buồng trứng bằng thuốc có tác dụng ngăn chặn hoặc giảm nồng độ estrogen, cụ thể:
Theo tạp chí The Lancet Oncology, việc kết hợp chất ức chế aromatase với phương pháp ức chế buồng trứng giúp cải thiện tỷ lệ sống và giảm nguy cơ tái phát ở phụ nữ tiền mãn kinh mắc ung thư vú dương tính với thụ thể hormone.
Ức chế chức năng buồng trứng do dùng thuốc thường mang tính tạm thời và có thể hồi phục sau điều trị. Tuy nhiên, một số phụ nữ có thể bị mãn kinh vĩnh viễn sau khi sử dụng các loại thuốc này.
Phẫu thuật ức chế buồng trứng bao gồm việc cắt bỏ buồng trứng 2 bên. Đây là hình thức ức chế buồng trứng lâu dài hơn, dẫn đến mãn kinh vĩnh viễn, bất kể tuổi tác của người bệnh.
Thủ thuật này có thể được thực hiện bằng nội soi (sử dụng vết mổ nhỏ và camera) hoặc thông qua phẫu thuật mở bụng. Rủi ro bao gồm chảy máu và nhiễm trùng.
Tamoxifen là thuốc ngăn chặn tác dụng của estrogen lên tế bào ung thư vú. Ở phụ nữ tiền mãn kinh, tamoxifen có thể được kết hợp với thuốc ức chế buồng trứng để tăng hiệu quả giảm nồng độ estrogen trong cơ thể.
Hóa trị có thể gây mãn kinh tạm thời hoặc vĩnh viễn ở phụ nữ tiền mãn kinh. Những phụ nữ có nguy cơ tái phát ung thư vú cao ở thời kỳ tiền mãn kinh sau hóa trị có thể được điều trị ức chế chức năng buồng trứng kết hợp tamoxifen hoặc thuốc ức chế aromatase.
Ức chế chức năng buồng trứng sau hóa trị có thể cải thiện tỷ lệ sống và giảm nguy cơ tái phát.
Ức chế buồng trứng có những rủi ro và tác dụng phụ, bao gồm:
Người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ để so sánh những rủi ro với lợi ích của phương pháp điều trị này.
Với một số phụ nữ, việc đối phó với ảnh hưởng của phương pháp ức chế buồng trứng (bao gồm mãn kinh sớm do điều trị) có thể khó khăn. Bác sĩ sẽ thảo luận với người bệnh về những lợi ích và rủi ro của việc ức chế buồng trứng.
Nếu tiếp tục gặp các tác dụng phụ, người bệnh nên báo cho bác sĩ để có cách xử lý triệu chứng tốt nhất.
Cần gặp bác sĩ khi xuất hiện các biến chứng phát sinh liên quan đến phương pháp ức chế chức năng buồng trứng. Một số biến chứng nguy hiểm như:
Tham khảo ý kiến bác sĩ về những lợi ích và rủi ro tiềm ẩn của việc ức chế buồng trứng nếu người bệnh là phụ nữ tiền mãn kinh bị ung thư vú dương tính với thụ thể hormone. Không phải ai cũng phù hợp với phương pháp điều trị này nhưng việc ức chế buồng trứng có thể giúp giảm nguy cơ tái phát ung thư cho những người có nguy cơ tái phát cao.
Bác sĩ sẽ giúp người bệnh cân nhắc giữa rủi ro và lợi ích của việc ức chế buồng trứng dựa trên loại ung thư vú, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và mong muốn điều trị của người bệnh. Các hướng dẫn điều trị cho rằng tất cả người bệnh ung thư vú tiền mãn kinh dương tính với hormone đều có kết quả cải thiện (ít tái phát ung thư hơn) nếu được điều trị bằng phương pháp ức chế buồng trứng.
Chăm sóc khi sử dụng ức chế chức năng buồng trứng cần những tiêu chí sau [1]:
Nếu người bệnh đã phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng thì không cần sử dụng biện pháp tránh thai.
Người bệnh được khuyên không nên mang thai khi đang điều trị ức chế buồng trứng bằng liệu pháp hormone vì thuốc có thể gây hại cho thai nhi. Người bệnh có thể mang thai khi đang điều trị bằng liệu pháp hormone, ngay cả khi kinh nguyệt đã ngừng hoặc không đều.
Sử dụng phương pháp tránh thai không chứa nội tiết tố để tránh mang thai, chẳng hạn như bao cao su, Femidoms hoặc màng ngăn. Người bệnh cũng có thể sử dụng vòng tránh thai hoặc dụng cụ tử cung. Tuy nhiên, người bệnh nên thảo luận vấn đề này với bác sĩ vì không phải loại nào cũng phù hợp với phụ nữ mắc bệnh ung thư vú.
Hóa trị có thể ảnh hưởng đến buồng trứng, làm giảm số lượng và chất lượng trứng và khiến việc mang thai trở nên khó khăn hơn.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc ức chế buồng trứng bằng cách sử dụng thuốc trị liệu bằng hormone có thể bảo vệ buồng trứng trong quá trình hóa trị vì nó tạm thời “đóng cửa” buồng trứng. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ức chế buồng trứng để bảo tồn khả năng sinh sản vẫn còn đang được tranh luận và không thể thay thế các phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản khác như đông lạnh trứng, phôi.
Cần nhiều nghiên cứu hơn để xem xét vai trò của ức chế buồng trứng trong quá trình hóa trị để bảo tồn khả năng sinh sản.
Nhóm điều trị của bạn nên thảo luận về phương pháp điều trị mà họ đề xuất cho bạn và tại sao.
Thuốc ức chế buồng trứng, chẳng hạn như leuprolide (Lupron) hoặc goserelin (Zoladex), có thể ngăn buồng trứng tạo ra estrogen. Trong hầu hết các trường hợp, khi ngừng điều trị bằng thuốc, buồng trứng sẽ bắt đầu sản xuất lại estrogen. [2]
Nếu người bệnh đang điều trị bằng cách ức chế buồng trứng để cố duy trì khả năng sinh sản trong quá trình hóa trị, một mũi tiêm thường được tiêm ít nhất 2 tuần trước khi bắt đầu hóa trị, sau đó duy trì 4 tuần một lần trong quá trình hóa trị.
Ức chế buồng trứng được xem như một phương pháp điều trị ung thư vú nguyên phát, thường được thực hiện trong khoảng từ 2-5 năm.
Nếu đang điều trị bằng cách ức chế buồng trứng do ung thư vú thứ phát, người bệnh thường sẽ tiếp tục dùng thuốc này cho đến khi việc điều trị có hiệu quả.
Trải qua thời kỳ mãn kinh sớm có thể tạo ra cảm giác mất mát và khiến người bệnh cảm thấy bị cô lập với những phụ nữ cùng tuổi. Người bệnh không phải tự mình đối phó, hãy bày tỏ cảm xúc và mối quan tâm của bản thân với điều dưỡng hoặc bác sĩ. Nếu người bệnh cảm thấy muốn nói chuyện sâu hơn, chuyên gia tư vấn tâm lý có thể phù hợp hơn.
Chia sẻ cảm xúc của người bệnh với người tình trạng tương tự, những người mắc bệnh lý tuyến vú khác, rất hữu ích. Câu lạc bộ bệnh nhân ung thư vú BV Tâm Anh có thể giúp người bệnh ung thư vú có không gian để trò chuyện và trao đổi những khó khăn trong quá trình điều trị.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Người bệnh nên tham khảo ý kiến với các bác sĩ để tìm hiểu thêm về ức chế chức năng buồng trứng, bao gồm lợi ích, tác dụng phụ và đối tượng với phương pháp điều trị này để có quyết định điều trị phù hợp, sớm khỏi bệnh